0
Bernard Fall – người đầu tiên viết về nhân dân Việt Nam chiến đấu vì hòa bình
Bernard B. Fall là một nhà sử học, nhà báo, và chuyên gia về chiến tranh du kích người Pháp, sinh ra ở Áo vào năm 1926 và qua đời trong một vụ nổ mìn tại Việt Nam vào năm 1967. Ông được biết đến nhiều nhất với công trình nghiên cứu của mình về Chiến tranh Việt Nam và sự can thiệp của Pháp và sau đó là Hoa Kỳ tại Đông Dương.
Fall đã trải qua một phần thanh niên của mình ở Pháp và tham gia Kháng chiến Pháp chống lại Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Sau chiến tranh, ông theo đuổi sự nghiệp học thuật và trở thành một trong những học giả hàng đầu về chiến tranh du kích và chiến tranh phi truyền thống. Ông đã đến Việt Nam nhiều lần để nghiên cứu và báo cáo về cuộc xung đột. Các tác phẩm của ông bao gồm những cuốn sách nổi tiếng như “Street Without Joy” (được Book Hunter thực hiện dịch và xuất bản với cái tên “Đại lộ buồn hiu”) và “Hell in a Very Small Place”, đã phân tích sâu sắc về các chiến dịch quân sự và chiến lược trong cuộc chiến.
Bernard B. Fall mất khi đang trên một sứ mệnh nghiên cứu tại Việt Nam, ông được tưởng nhớ với tư cách là một học giả đã cống hiến cuộc đời mình để hiểu và giải thích những xung đột quân sự phức tạp trong lịch sử hiện đại. Công trình của ông vẫn đem lại nhiều giá trị cho những nhà nghiên cứu và học giả trong lĩnh vực quân sự và chiến tranh du kích.
Dưới đây là series bài viết nhiều kỳ về tác giả Bernard B. Fall của nhà báo Phan Quang được đăng trên Báo Lâm Đồng Online mà chúng tôi sưu tầm được, kính mời quý vị độc giả cùng đọc và tìm hiểu.
-
-20%
Đại lộ buồn hiu – Bernard B. Fall
290.000₫Original price was: 290.000₫.232.000₫Current price is: 232.000₫.
Con đường ấy chạy dọc theo chiều dài vùng Quảng Trị quê tôi. Nó vốn không có tên. Giống như mọi con đường lớn nhỏ khác nó chỉ được phân loại và đánh số thứ tự: quốc lộ 1, 2…, tỉnh lộ 30, 40, vv. Những người lính da trắng và da đen trong đạo quân xâm lược nước ta sau năm 1945 đã đặt tên cho nó là “Con Đường Không Vui” (La Rue sans Joie), không vui cho quân đội Pháp đã đành, không vui cả cho quân đội Mỹ mấy năm sau (The Street Without Joy). Cái tên ấy lan truyền rộng rãi trên thế giới, trước hết trong giới học thuật và những ai quan tâm đến các cuộc chiến tranh Đông Dương, là công của một học giả – nhà báo nổi tiếng tên là Bernard Fall (Bernard B. Fall) qua công trình biên khảo công bố lần đầu ở Mỹ năm 1961, khi tác giả vào tuổi 35. Ông muốn minh chứng, qua khảo sát thực địa, thực tế lịch sử cùng kiến giải khoa học, La Rue sans Joie đã dẫn nước Pháp đến Điện Biên Phủ, và The Street Without Joy chắc chắn sẽ đưa nước Mỹ đến thảm bại, do đó phải ngừng ngay tức khắc cuộc can thiệp của Mỹ vào Việt Nam.
Tác giả Bernard Fall đã dành trọn một chương trong cuốn Street Without Joy tường thuật và luận bình về cuộc hành quân lớn tháng 7 năm 1953 trên doi đất hẹp gồm các ruộng lúa và đụn cát chạy song song bờ biển, cũng là song hành với quãng đường vừa nói, được người Pháp đặt tên là “Cuộc hành quân Camargue” (Opération Camargue). Đây là một cuộc hành quân lớn, phối hợp lục, hải, không quân, do tướng Leblanc, Tư lệnh Quân đội Pháp tại Trung Việt Nam đích thân chỉ huy, nhằm bao vây, tiêu diệt Trung đoàn 95 Bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), đơn vị chủ lực của Phân khu Bình Trị Thiên hồi bấy giờ. Bernard Fall phân tích: Chiến trường chính trong chiến tranh Việt Nam 1945-1954 là Bắc Bộ. Nam Bộ đóng vai trò quan trọng với bán đảo Cà Mau, rừng U Minh, Đồng Tháp Mười, chiến khu miền Đông sát ngõ thành phố Sài Gòn. Tại miền Trung hình thành hai vùng căn cứ lớn của Việt Minh với các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên về phía Nam, từ đây các trung đoàn quân chủ lực 108 và 803 là mối đe dọa sát sườn của quân Pháp ở Cao nguyên, và về phía Bắc là rẻo đất hẹp có chiều dài chừng 250 cây số và chiều sâu (từ biển đến núi) nhiều nơi không quá 10 cây số, từ thị xã Đồng Hới vào tới đèo Hải Vân. Tuy nhiên, chặng hiểm hóc và quyết định nhất tại rẻo đất hẹp này – tác giả viết – là một quãng đường tồi tệ trước kia vừa đủ rộng cho hai chiếc xe tải tránh nhau, nay qua nhiều lần bị băm vằm phá hoại và chưa bao giờ được bảo trì, đã trở thành một con đường mòn đủ cho xe bò, xe ngựa đi lại. “Quãng đường tồi tệ” ấy nối liền thị xã Quảng Trị với thị trấn Mỹ Chánh, địa đầu hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên: “Tên thông dụng của nó là Đường Cái quan (la Route mandarine). Tên chính thức của nó là Quốc lộ 1 (Nationale No.1) Nhưng tên thực tế của nó khác. Tất cả các đoàn xe quân sự của Pháp chạy trên quãng đường này đều chịu tổn thất nặng nề, sa vào các ổ phục kích do các chiến binh mặc áo quần đen của Trung đoàn 95 Bộ binh, một đơn vị ưu tú của QĐNDVN đã thâm nhập vào hậu tuyến của quân đội Pháp từ hơn hai năm nay, gây nên. Với cái tính hài hước cười ra nước mắt, binh lính Pháp đặt tên cho quãng đường ấy là Con Đường Không Vui ”.
Làng Hải Thượng nơi tôi chào đời nằm đúng vào “quãng đường tồi tệ” ấy.
Tháng 7/1953, vẫn theo tường thuật của Bernard Fall, Bộ Tổng Chỉ huy quân đội Pháp quyết định quét sạch vùng đất tồi tệ ấy bằng một cuộc hành quân lớn phối hợp bộ binh, pháo binh, thiết giáp, hải quân, tàu đổ bộ từ biển vào, xe lội nước, lính nhảy dù, có không quân yểm trợ… Bốn cánh bộ binh do bốn viên đại tá chỉ huy tấn công từ bốn hướng xuất quân cùng một lúc và thít chặt dần vòng vây. Hải quân áp sát ngoài khơi, từ Cửa Việt (Quảng Trị) đến Cửa Thuận (Thừa Thiên). Lính nhảy dù tập kết tại thành phố Đà Nẵng, sẵn sàng xung trận ngay tức khắc nếu bộ chỉ huy Pháp phát hiện bất kỳ dấu hiệu nhỏ nào cho thấy đối phương tìm cách thoát ra ngoài vòng vây. Lực lượng tung vào cuộc hành quân càn quét này gồm 10 trung đoàn bộ binh, 3 lữ đoàn thiết giáp, 2 tiểu đoàn lính nhảy dù, 1 đoàn xe bọc thép, 4 liên đội pháo binh. Không quân cung cấp 32 máy bay vận tải, 22 máy bay ném bom, 6 máy bay trinh sát.
Hải quân góp một hải đoàn tuần tra biển với 12 chiến hạm trong đó có 3 tàu đổ bộ, kiểu L.S.T chở nhiều xe lội nước bọc thép tục danh là Cua và Cá Sấu. L.S.T, L.C.T., L.C.M… là tên các kiểu tàu đổ bộ khác nhau. “Cua”, ký hiệu chính thức là Chiến xa 29-C chuyên chở phụ tùng, súng đạn, xăng dầu, “Cá Sấu” là tàu đổ bộ lội nước chạy bánh xích, ký hiệu LVT-4, chở lính thủy đánh bộ cùng trang thiết bị, tất cả đều của Mỹ. Và tác giả, giáo sư chính trị quốc tế Trường Đại học Howard, Washington DC, Hoa Kỳ, từng là chiến sĩ Pháp chống phát xít từ tuổi 16, cựu chiến binh Sư đoàn Bắc Phi số 2 Quân Giải phóng của tướng De Gaulle trong Thế chiến thứ hai, Huân chương Giải phóng, nhận xét: “Lực lượng được quân đội Pháp tung vào cuộc hành quân càn quét này hoàn toàn không thua kém các cuộc hành quân đổ bộ của các nước Đồng Minh tại Thái Bình Dương hay tại Địa Trung Hải trong Chiến tranh thế giới thứ hai”. Với lực lượng hùng hậu như thế (Nhiều sĩ quan Pháp tham gia Cuộc hành quân Camargue tại Quảng Trị như Langlais, Piroth… sang năm sau (1954) sẽ tham gia và thất bại thảm hại, có người bỏ mạng, tại Điện Biên Phủ ), các sĩ quan tham mưu Pháp cầm chắc “Trung đoàn 95 QĐNDVN và các đơn vị du kích phụ trợ chuyến này rất ít có khả năng thoát khỏi tấm lưới bủa vây”.
Giờ G ngày N cuộc Hành quân Camargue được Bộ Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ấn định vào 5 giờ sáng ngày 28/7/1953. Vừa tảng sáng, các đơn vị Hải quân có căn cứ tại Đà Nẵng vốn đã lặng lẽ dàn binh ngoài khơi huyện Hải Lăng từ đêm hôm trước, ra lệnh cho các tàu đổ bộ ra quân. Ngòi bút nhà báo-học giả như cũng không kìm nén nổi ấn tượng trước quang cảnh 160 chiến xa đồng loạt rẽ sóng ào ạt tiến vào bờ: “Trên mặt nước biển vẫn còn đen xẫm màu chì (bởi bình minh chỉ vừa mới rạng), những chiếc tàu đổ quân đã vạch nên những làn sóng bạc, từ đỉnh các ăng ten cao ngất nghễu, nổi bật lên nền trời đang rạng dần phù hiệu các đơn vị tham chiến…”. Bốn cánh quân trên bộ được lệnh khởi động muộn hơn một ít, để khỏi làm kinh động đối phương. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, các cánh quân Pháp chưa tập kết xong vào vị trí theo phương án tác chiến, bất thần súng đã nổ. Cuộc đọ sức đã bắt đầu tại làng Đơn Quế, hồi ấy thuộc xã Hải Châu (nay là Hải Quế) ven Tỉnh lộ 68. Theo tác giả, một đại đội lính bộ người Bắc Phi bất thần sa vào ổ phục kích. Súng bắn xối xả từ phía đối phương, nhiều lắm cũng đến ba chục tay súng là cùng. Tên lính Pháp bị quân Việt bắn hạ đầu tiên trong cuộc hành quân Camargue là Abd-El-Kader, lính lê dương người Maroc. Y bị một loạt đạn tiểu liên găm đúng vào ngực. “Một tay lính trẻ Việt Minh có lẽ tại thần kinh căng thẳng quá khi thấy đội quân Pháp ào ào xốc tới sát sườn, không đủ kiên nhẫn chờ cho cả đại đội Pháp sa gọn vào trận địa phục kích như kế hoạch định, đã bóp cò hơi sớm”. Theo phản xạ của những chiến binh thành thục chiến trường, nghe tiếng súng nổ lính lê dương nhất loạt bổ ngoài ra đất và lăn người xuống ruộng lúa hai bên đường, nhờ vậy nhiều tên thoát chết trong gang tấc.
Cho dù các thông báo quân đội Pháp phát cho báo chí cái nào cũng hết sức lạc quan, tướng Tổng chỉ huy Leblanc dày dạn chiến trường là người tỉnh táo. Ông biết, Trung đoàn 95 của QĐNDVN chỉ cho một vài đơn vị nhỏ phục kích chặn đánh, làm chậm cuộc hành quân của quân Pháp, còn đại bộ phận trung đoàn vẫn án binh bất động đâu đó, chờ đến tối sẽ thoát ra ngoài vòng vây. Vì vậy, không chờ đợi lâu hơn nữa, mới 2 giờ chiều ngày N, ngày đầu tiên ra quân, ông đã ra lệnh tung luôn lính nhảy dù ém tại Đà Nẵng vào cuộc chiến ngay tức khắc…
Năm 1997, bà quả phụ Dorothy Fall sang nước ta lần theo dấu vết của chồng nhằm hoàn tất cuốn tiểu sử-hồi ức về ông (Memories of a Soldier-Schoolar). Bà được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bà viết: “Đại tướng đã đọc các tác phẩm của Bernard Fall. Ông xúc động nói với tôi: Chồng bà là người đầu tiên viết về nhân dân Việt Nam chiến đấu vì hòa bình. Chồng bà là người đầu tiên dự đoán thất bại của Mỹ ở Việt Nam. Chồng bà nghiên cứu sâu về Việt Nam và hiểu rõ nhân dân chúng tôi lắm”. Bà Dorothy sẽ dành nhiều trang trong cuốn Memories… thuật lại “tấm lòng quý mến của Bernard Fall đối với đất nước Việt Nam và những cố gắng không mệt mỏi của ông giúp Việt Nam khỏi bị tàn phá bởi bom đạn, cũng chính là giúp Hoa Kỳ tránh thảm họa thất bại cuối cùng”.
Bernard Fall người Pháp gốc Do thái, sinh năm 1926 tại Viên, thủ đô nước Áo. Năm 1938, tránh nạn phát xít, gia đình ông di cư sang Paris, nhập quốc tịch Pháp, rồi tham gia chiến tranh chống Đức xâm lược. Năm 1940, cha ông bị quân đội Đức bắt và xử tử, mẹ ông bị đày vào trại tập trung, không bao giờ trở lại. Cậu bé Bernard 16 tuổi đã tham gia quân du kích Pháp hoạt động tại vùng núi Alpes, chờ đủ tuổi sung vào quân đội, Sư đoàn 2 Bắc Phi Quân Giải phóng Pháp, năm 1946, mới trở lại trường học. Ông sang Mỹ học thạc sĩ, được các giáo sư khuyến khích nên đi sâu nghiên cứu vấn đề chiến tranh Pháp ở Đông Dương, vấn đề nóng nhất lúc bấy giờ. Chàng nghiên cứu sinh đến Việt Nam lần đầu năm 1952, tìm tư liệu hoàn thành luận văn tiến sĩ.
Năm 1953, sau khi theo dõi một chiến dịch càn quét của quân đội Pháp có tên là Opération Camargue phối hợp lục, hải, không quân, mà ông coi là một “cuộc hành quân lớn ngang tầm Thế chiến II”, với mục đích bao vây, tiêu diệt Trung đoàn 95 QĐND Việt Nam đang hoạt động tại vùng này, ông đã quả quyết sự thất bại không thể nào tránh khỏi của Đạo quân viễn chinh Pháp tại Việt Nam. Với nhiều bài đăng trên báo chí phương Tây phản đối chiến tranh thực dân, Bernard Fall trở thành đối tượng theo dõi của tình báo Pháp. Không những nhiều bài viết của ông bị ngăn chặn trên đường gửi đến các tòa soạn, mọi thư riêng ông thăm hỏi người vợ chưa cưới đang ở Mỹ cũng đều bị kiểm duyệt săm soi.
Từ bài học thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ, ngay từ những ngày Mỹ bắt đầu can thiệp vào miền Nam Việt Nam, Tiến sĩ Bernard Fall đã khẳng định Mỹ nhất định rồi cũng sẽ thất bại. Ông kiên trì bác bỏ và tìm cách chứng minh quan điểm của những thế lực hiếu chiến Mỹ cứ một mực cho rằng sức mạnh quân sự và vũ khí tối tân có thể đè bẹp ý chí độc lập của một dân tộc, là hoàn toàn sai lầm. Bernard Fall đến lượt trở thành “đối tượng nguy hiểm cho nước Mỹ”, bị FBI theo sát từng bước chân.
Về nhân thân, Bernard Fall lại tự cho là mình có “thế mạnh”. Là cựu chiến binh Sư đoàn 2 Bắc Phi Pháp chống phát xít, được trao tặng Huân chương Giải phóng, Bernard Fall đến Việt Nam được các đơn vị Đạo quân viễn chinh Pháp ở đây đón tiếp như đồng đội, sẵn sàng mời tham gia các cuộc hành quân, nhờ thế ông dễ dàng thâm nhập các nguồn tư liệu quân sự. Sang thời Mỹ can thiệp sâu vào Việt Nam, với tư cách học giả, giáo sư một trường đại học tên tuổi tại thủ đô Washington, cộng tác viên của nhiều cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình hàng đầu Mỹ, ông dễ dàng hòa nhập vào các đơn vị quân đội Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Bernard Fall trước sau vẫn kiên định trong quan điểm phản đối chiến tranh xâm lược, và cố gắng hết mình đấu tranh đòi Mỹ mau chóng rút khỏi Việt Nam. Ông tự hào là trong quá trình thực hiện tại chỗ các công trình nghiên cứu, chưa bao giờ nhận trợ cấp của bất kỳ ai mà đều tự lo trang trải chi phí các chuyến đi dã ngoại.
Trong khoảng thời gian chưa tới 14 năm, từ cuối 1952 đến đầu 1967, Bernard Fall đã sang Việt Nam trước sau sáu lần, có chuyến đi kéo dài cả nửa năm, đặc biệt những năm tình hình chiến sự ngày càng nóng: 1965, 1966, 1967 năm nào ông cũng có một chuyến đến khảo sát tại chỗ. Ông đã cung cấp cho báo chí Mỹ, đặc biệt những tờ báo tên tuổi như The Washington Post, The New York Times… không chỉ nhiều bài, tin mà còn những tấm ảnh chụp tại chỗ có giá trị tố cáo chiến tranh. Có ảnh chụp cảnh làng quê Nam Việt Nam bốc cháy ngùn ngụt dưới trận mưa bom của Mỹ. Có ảnh chụp cảnh tù binh người Việt bị quân đội Mỹ cố tình bắt phơi nắng cho chết dưới sức nóng mặt trời như thiêu như đốt, trước con mắt lạnh lùng của những tên lính gác…
Trong sáu chuyến đi ấy, chuyến đến Bắc Việt Nam năm 1962 có tác động quyết định đến nhiều quan điểm chính trị của Bernard Fall. Ông được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số nhà lãnh đạo gần gũi của Người, được Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp và trả lời phỏng vấn… Ông lên Điện Biên Phủ nghiên cứu thực địa, chuẩn bị tác phẩm Hell in Very Small Place. The Siege of Đien Bien Phu (Các bản dịch tiếng Pháp, tiếng Việt đều lấy đề Điện Biên Phủ, một góc địa ngục), xuất bản lần đầu năm 1966. Ông vào bờ bắc sông Bến Hải khảo sát “Mặt bên kia của vĩ tuyến 17” (tên một bài viết). Sau chuyến đi thăm miền Bắc Việt Nam, ông cho công bố nhiều bài trên các phương tiện truyền thông lớn ở Mỹ và Anh, trong đó có bài lời lẽ vô cùng trân trọng “cụ già tuổi ngoại bảy mươi với chòm râu bạc đi dép cao su”. Báo The Washington Post đăng bài ông phỏng vấn Thủ tướng Phạm Văn Đồng, tại đó Thủ tướng khẳng định “Mỹ không muốn có một cuộc chiến tranh dài nhưng rồi nó sẽ kéo dài. Mỹ không muốn thất bại ở Việt Nam nhưng rồi cuối cùng nhân dân Việt Nam là người chiến thắng”. Vẫn theo nhà sử học Leonard P. Liggio, sau chuyến đến miền Bắc nước ta năm 1962, qua thực tế cảm nhận được nơi đây, Bernard Fall nhấn mạnh sự khác biệt giữa hai miền Nam – Bắc; khác hẳn ở miền Bắc, chính quyền Sài Gòn ở miền Nam tuyệt nhiên không được bất kỳ sự ủng hộ nào từ dân chúng, mà “thiếu sự ủng hộ ấy, máy bay trực thăng và vũ khí hiện đại đến mấy cũng chẳng làm nên trò trống gì”.
PHAN QUANG