Bernard Fall – người đầu tiên viết về nhân dân Việt Nam chiến đấu vì hòa bình

Bernard B. Fall là một nhà sử học, nhà báo, và chuyên gia về chiến tranh du kích người Pháp, sinh ra ở Áo vào năm 1926 và qua đời trong một vụ nổ mìn tại Việt Nam vào năm 1967. Ông được biết đến nhiều nhất với công trình nghiên cứu của mình về Chiến tranh Việt Nam và sự can thiệp của Pháp và sau đó là Hoa Kỳ tại Đông Dương.

Fall đã trải qua một phần thanh niên của mình ở Pháp và tham gia Kháng chiến Pháp chống lại Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai. Sau chiến tranh, ông theo đuổi sự nghiệp học thuật và trở thành một trong những học giả hàng đầu về chiến tranh du kích và chiến tranh phi truyền thống. Ông đã đến Việt Nam nhiều lần để nghiên cứu và báo cáo về cuộc xung đột. Các tác phẩm của ông bao gồm những cuốn sách nổi tiếng như “Street Without Joy” (được Book Hunter thực hiện dịch và xuất bản với cái tên “Đại lộ buồn hiu”)  và “Hell in a Very Small Place”, đã phân tích sâu sắc về các chiến dịch quân sự và chiến lược trong cuộc chiến.

Bernard B. Fall mất khi đang trên một sứ mệnh nghiên cứu tại Việt Nam, ông được tưởng nhớ với tư cách là một học giả đã cống hiến cuộc đời mình để hiểu và giải thích những xung đột quân sự phức tạp trong lịch sử hiện đại. Công trình của ông vẫn đem lại nhiều giá trị cho những nhà nghiên cứu và học giả trong lĩnh vực quân sự và chiến tranh du kích.

Dưới đây là series bài viết nhiều kỳ về tác giả Bernard B. Fall của nhà báo Phan Quang được đăng trên Báo Lâm Đồng Online mà chúng tôi sưu tầm được, kính mời quý vị độc giả cùng đọc và tìm hiểu.

Con đường ấy chạy dọc theo chiều dài vùng Quảng Trị quê tôi. Nó vốn không có tên. Giống như mọi con đường lớn nhỏ khác nó chỉ được phân loại và đánh số thứ tự: quốc lộ 1, 2…, tỉnh lộ 30, 40, vv. Những người lính da trắng và da đen trong đạo quân xâm lược nước ta sau năm 1945 đã đặt tên cho nó là “Con Đường Không Vui” (La Rue sans Joie), không vui cho quân đội Pháp đã đành, không vui cả cho quân đội Mỹ mấy năm sau (The Street Without Joy). Cái tên ấy lan truyền rộng rãi trên thế giới, trước hết trong giới học thuật và những ai quan tâm đến các cuộc chiến tranh Đông Dương, là công của một học giả – nhà báo nổi tiếng tên là Bernard Fall (Bernard B. Fall) qua công trình biên khảo công bố lần đầu ở Mỹ năm 1961, khi tác giả vào tuổi 35. Ông muốn minh chứng, qua khảo sát thực địa, thực tế lịch sử cùng kiến giải khoa học, La Rue sans Joie đã dẫn nước Pháp đến Điện Biên Phủ, và The Street Without Joy chắc chắn sẽ đưa nước Mỹ đến thảm bại, do đó phải ngừng ngay tức khắc cuộc can thiệp của Mỹ vào Việt Nam.

Tác giả Bernard Fall đã dành trọn một chương trong cuốn Street Without Joy tường thuật và luận bình về cuộc hành quân lớn tháng 7 năm 1953 trên doi đất hẹp gồm các ruộng lúa và đụn cát chạy song song bờ biển, cũng là song hành với quãng đường vừa nói, được người Pháp đặt tên là “Cuộc hành quân Camargue” (Opération Camargue). Đây là một cuộc hành quân lớn, phối hợp lục, hải, không quân, do tướng Leblanc, Tư lệnh Quân đội Pháp tại Trung Việt Nam đích thân chỉ huy, nhằm bao vây, tiêu diệt Trung đoàn 95 Bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN), đơn vị chủ lực của Phân khu Bình Trị Thiên hồi bấy giờ. Bernard Fall phân tích: Chiến trường chính trong chiến tranh Việt Nam 1945-1954 là Bắc Bộ. Nam Bộ đóng vai trò quan trọng với bán đảo Cà Mau, rừng U Minh, Đồng Tháp Mười, chiến khu miền Đông sát ngõ thành phố Sài Gòn. Tại miền Trung hình thành hai vùng căn cứ lớn của Việt Minh với các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên về phía Nam, từ đây các trung đoàn quân chủ lực 108 và 803 là mối đe dọa sát sườn của quân Pháp ở Cao nguyên, và về phía Bắc là rẻo đất hẹp có chiều dài chừng 250 cây số và chiều sâu (từ biển đến núi) nhiều nơi không quá 10 cây số, từ thị xã Đồng Hới vào tới đèo Hải Vân. Tuy nhiên, chặng hiểm hóc và quyết định nhất tại rẻo đất hẹp này – tác giả viết – là một quãng đường tồi tệ trước kia vừa đủ rộng cho hai chiếc xe tải tránh nhau, nay qua nhiều lần bị băm vằm phá hoại và chưa bao giờ được bảo trì, đã trở thành một con đường mòn đủ cho xe bò, xe ngựa đi lại. “Quãng đường tồi tệ” ấy nối liền thị xã Quảng Trị với thị trấn Mỹ Chánh, địa đầu hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên: “Tên thông dụng của nó là Đường Cái quan (la Route mandarine). Tên chính thức của nó là Quốc lộ 1 (Nationale No.1) Nhưng tên thực tế của nó khác. Tất cả các đoàn xe quân sự của Pháp chạy trên quãng đường này đều chịu tổn thất nặng nề, sa vào các ổ phục kích do các chiến binh mặc áo quần đen của Trung đoàn 95 Bộ binh, một đơn vị ưu tú của QĐNDVN đã thâm nhập vào hậu tuyến của quân đội Pháp từ hơn hai năm nay, gây nên. Với cái tính hài hước cười ra nước mắt, binh lính Pháp đặt tên cho quãng đường ấy là Con Đường Không Vui ”.

Làng Hải Thượng nơi tôi chào đời nằm đúng vào “quãng đường tồi tệ” ấy.
Tháng 7/1953, vẫn theo tường thuật của Bernard Fall, Bộ Tổng Chỉ huy quân đội Pháp quyết định quét sạch vùng đất tồi tệ ấy bằng một cuộc hành quân lớn phối hợp bộ binh, pháo binh, thiết giáp, hải quân, tàu đổ bộ từ biển vào, xe lội nước, lính nhảy dù, có không quân yểm trợ… Bốn cánh bộ binh do bốn viên đại tá chỉ huy tấn công từ bốn hướng xuất quân cùng một lúc và thít chặt dần vòng vây. Hải quân áp sát ngoài khơi, từ Cửa Việt (Quảng Trị) đến Cửa Thuận (Thừa Thiên). Lính nhảy dù tập kết tại thành phố Đà Nẵng, sẵn sàng xung trận ngay tức khắc nếu bộ chỉ huy Pháp phát hiện bất kỳ dấu hiệu nhỏ nào cho thấy đối phương tìm cách thoát ra ngoài vòng vây. Lực lượng tung vào cuộc hành quân càn quét này gồm 10 trung đoàn bộ binh, 3 lữ đoàn thiết giáp, 2 tiểu đoàn lính nhảy dù, 1 đoàn xe bọc thép, 4 liên đội pháo binh. Không quân cung cấp 32 máy bay vận tải, 22 máy bay ném bom, 6 máy bay trinh sát.

Hải quân góp một hải đoàn tuần tra biển với 12 chiến hạm trong đó có 3 tàu đổ bộ, kiểu L.S.T chở nhiều xe lội nước bọc thép tục danh là Cua và Cá Sấu. L.S.T, L.C.T., L.C.M… là tên các kiểu tàu đổ bộ khác nhau. “Cua”, ký hiệu chính thức là Chiến xa 29-C chuyên chở phụ tùng, súng đạn, xăng dầu, “Cá Sấu” là tàu đổ bộ lội nước chạy bánh xích, ký hiệu LVT-4, chở lính thủy đánh bộ cùng trang thiết bị, tất cả đều của Mỹ. Và tác giả, giáo sư chính trị quốc tế Trường Đại học Howard, Washington DC, Hoa Kỳ, từng là chiến sĩ Pháp chống phát xít từ tuổi 16, cựu chiến binh Sư đoàn Bắc Phi số 2 Quân Giải phóng của tướng De Gaulle trong Thế chiến thứ hai, Huân chương Giải phóng, nhận xét: “Lực lượng được quân đội Pháp tung vào cuộc hành quân càn quét này hoàn toàn không thua kém các cuộc hành quân đổ bộ của các nước Đồng Minh tại Thái Bình Dương hay tại Địa Trung Hải trong Chiến tranh thế giới thứ hai”. Với lực lượng hùng hậu như thế (Nhiều sĩ quan Pháp tham gia Cuộc hành quân Camargue tại Quảng Trị như Langlais, Piroth… sang năm sau (1954) sẽ tham gia và thất bại thảm hại, có người bỏ mạng, tại Điện Biên Phủ ), các sĩ quan tham mưu Pháp cầm chắc “Trung đoàn 95 QĐNDVN và các đơn vị du kích phụ trợ chuyến này rất ít có khả năng thoát khỏi tấm lưới bủa vây”.

Giờ G ngày N cuộc Hành quân Camargue được Bộ Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ấn định vào 5 giờ sáng ngày 28/7/1953. Vừa tảng sáng, các đơn vị Hải quân có căn cứ tại Đà Nẵng vốn đã lặng lẽ dàn binh ngoài khơi huyện Hải Lăng từ đêm hôm trước, ra lệnh cho các tàu đổ bộ ra quân. Ngòi bút nhà báo-học giả như cũng không kìm nén nổi ấn tượng trước quang cảnh 160 chiến xa đồng loạt rẽ sóng ào ạt tiến vào bờ: “Trên mặt nước biển vẫn còn đen xẫm màu chì (bởi bình minh chỉ vừa mới rạng), những chiếc tàu đổ quân đã vạch nên những làn sóng bạc, từ đỉnh các ăng ten cao ngất nghễu, nổi bật lên nền trời đang rạng dần phù hiệu các đơn vị tham chiến…”. Bốn cánh quân trên bộ được lệnh khởi động muộn hơn một ít, để khỏi làm kinh động đối phương. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, các cánh quân Pháp chưa tập kết xong vào vị trí theo phương án tác chiến, bất thần súng đã nổ. Cuộc đọ sức đã bắt đầu tại làng Đơn Quế, hồi ấy thuộc xã Hải Châu (nay là Hải Quế) ven Tỉnh lộ 68. Theo tác giả, một đại đội lính bộ người Bắc Phi bất thần sa vào ổ phục kích. Súng bắn xối xả từ phía đối phương, nhiều lắm cũng đến ba chục tay súng là cùng. Tên lính Pháp bị quân Việt bắn hạ đầu tiên trong cuộc hành quân Camargue là Abd-El-Kader, lính lê dương người Maroc. Y bị một loạt đạn tiểu liên găm đúng vào ngực. “Một tay lính trẻ Việt Minh có lẽ tại thần kinh căng thẳng quá khi thấy đội quân Pháp ào ào xốc tới sát sườn, không đủ kiên nhẫn chờ cho cả đại đội Pháp sa gọn vào trận địa phục kích như kế hoạch định, đã bóp cò hơi sớm”. Theo phản xạ của những chiến binh thành thục chiến trường, nghe tiếng súng nổ lính lê dương nhất loạt bổ ngoài ra đất và lăn người xuống ruộng lúa hai bên đường, nhờ vậy nhiều tên thoát chết trong gang tấc.
Cho dù các thông báo quân đội Pháp phát cho báo chí cái nào cũng hết sức lạc quan, tướng Tổng chỉ huy Leblanc dày dạn chiến trường là người tỉnh táo. Ông biết, Trung đoàn 95 của QĐNDVN chỉ cho một vài đơn vị nhỏ phục kích chặn đánh, làm chậm cuộc hành quân của quân Pháp, còn đại bộ phận trung đoàn vẫn án binh bất động đâu đó, chờ đến tối sẽ thoát ra ngoài vòng vây. Vì vậy, không chờ đợi lâu hơn nữa, mới 2 giờ chiều ngày N, ngày đầu tiên ra quân, ông đã ra lệnh tung luôn lính nhảy dù ém tại Đà Nẵng vào cuộc chiến ngay tức khắc…

Vì khuôn khổ bài báo, chúng tôi không thể điểm lại, dù hết sức sơ lược, bài viết ngồn ngộn chi tiết đắt giá kèm những luận bình dí dỏm của nhà báo – học giả nắm chắc vấn đề, cũng như không thể với tư cách một chứng nhân, bổ sung, điều chỉnh các chi tiết chưa thật chính xác trong bài của tác giả Bernard Fall. Chẳng hạn, không phải “Trung đoàn 95 thâm nhập vào hậu tuyến quân Pháp từ hơn hai năm nay” (tức từ 1951), như tác giả nhầm, mà thực tế trung đoàn đã gắn bó với nhân dân địa phương ngay từ khi mặt trận Huế vỡ (1947). Tết Canh Dần 1950, làm phóng viên Báo Cứu quốc, tôi từ chiến khu về xã Hải Châu “ăn Tết” cùng Đại đội 150 Tiểu đoàn 310, đại đội chủ công của Trung đoàn 95 hồi bấy giờ. “… Gần nửa đêm, chúng tôi dậy đón Giao thừa. Ngồi dựa sát vào nhau cho đỡ rét, cùng uống ngụm nước chè tàu, nhắm lát mứt gừng đồng bào biếu cho ấm họng mà nói chuyện tâm tình… Sao những ngày giao nối hai năm Sửu và Dần này rét đến thế. Da cứ tê đi, người đét lại, có bao nhiêu áo quần mang ra mặc hết, người cứ như bị bó giò. Đại đội trưởng đi nghiên cứu địa hình nơi sẽ phục kích trận đầu năm về trong đêm khuya, cứ xuýt xoa kêu ngoài trời rét ơi là rét…” (Bài Tết ở Đại đội 150, Báo Cứu quốc LK4),vv. Xin đi luôn vào đoạn kết. Tác giả Bernard Fall viết: Đến chập tối ngày N, khi bốn cánh quân trên bộ và các đơn vị từ biển ập vào, lính dù từ trên trời đổ xuống liên lạc được với nhau, theo đánh giá của sĩ quan tham mưu Pháp, “toàn bộ Trung đoàn 95 QĐNDVN đã nằm gọn trong một tấm lưới có chiều dài 14km, rộng 3km…”. 
 
Tuy nhiên, vậy mà không phải vậy. 
 
Tác giả ghi nhận: “Những đôi hàm thép của một đạo quân hiện đại, được yểm trợ bởi các lực lượng hải quân, xe tăng lội nước, máy bay chiến đấu… đang thít chặt, hùng hổ xục tìm những người lính nông dân vừa được vũ trang vội vã và huấn luyện cấp tốc bởi những cán bộ không có ai mang quân hàm cao hơn bậc cai trong Đội lính Khố Xanh thời trước, nói gọn lại, đạo quân Pháp được triển khai hôm nay mạnh hơn đối phương ít nhất cả chục lần. Có điều trong cái bẫy vừa sập xuống ấy, tuyệt nhiên không tóm được một con mồi nào”.
 
Đúng là quân Pháp cũng có bắt được vài chú thiếu niên vừa đủ lớn để có thể nhấc nổi khẩu súng trường, các chú trả lời ấp a ấp úng, không khai được mình là người làng nào ở đây. Vậy đích thị là quân đội chính quy của Việt Minh rồi, cứ coi như quân Pháp vừa bắt được tù binh đi. Ngoài ra, cánh quân có nhiệm vụ càn quét cũng tóm được mấy khẩu súng trường và vài ba nông dân người làng Đơn Quế, nơi đối phương kháng cự mạnh mẽ nhất. Dù sao thì 36 tiếng đồng hồ sau giờ G ngày N, tác giả Bernard Fall nhấn mạnh, “đã hoàn toàn sáng tỏ là cuộc Hành quân Camargue đã thất bại”.
 
Dù vậy, Bộ Tổng chỉ huy Pháp còn chờ thêm mấy ngày nữa, cho quân dàn hàng ngang lùng xục, xăm xoi các xóm làng, các đồng lúa, mọi ngóc ngách tìm các hầm trú ẩn của lính Việt Minh, gom đàn bà trẻ em không kịp chạy, mãi đến ngày 4-8-1953, mới ra Thông báo báo chí tuyên bố Cuộc hành quân Camargue đã hoàn tất. Báo chí Sài Gòn ca ngợi hết lời. Rằng “cuộc hành quân là một thành công lớn”, “cuộc hành quân chứng tỏ sức chiến đấu và tính cơ động ngày càng tăng của quân Pháp”, rằng “nó cho thấy sự cần thiết và tính hiệu quả đưa các đơn vị xe lội nước và lực lượng cơ giới hùng hậu vào bình định các vùng ruộng lúa và cát lầy”, vv. và vv. Trong khi đó, Đạo quân viễn chinh Pháp, người trong cuộc, đau xót và khôn ngoan hơn, cho nên dè dặt hơn trong việc khoa trương ngôn từ. Họ lặng lẽ tổng kết bài học thất bại.
 
Về cuộc hành quân mang tên Camargue, Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội) dành chưa tới mươi dòng: “ …Sau một ngày, địch không khép kín được vòng vây và bị thiệt hại nặng. Tên tướng Leblanc điên cuồng, hạ lệnh thúc cánh quân thủy cứ tiến theo sông Vân Trình, (lại) huy động quân dù đổ bộ hợp vây nhưng vẫn không đạt kết quả mong muốn… Đến tối, địch buộc phải ngừng tiến quân. Trung đoàn 95 và các cơ quan của tỉnh, huyện đóng tại vùng Đơn Quế, Đồng Dương, sau khi bố trí bom mìn, cạm bẫy cẩn thận, đã bí mật rút ra ngoài vòng vây ” (tr. 385).
 
Người viết bài này có lần cùng nhà thơ Nguyễn Xuân Thâm, một người con xứ Huế, gợi lại những kỷ niệm buổi thiếu thời. Nhà thơ cho biết năm 1953, đang học trường Quốc học, anh có đi xem cuộc triển lãm về chiến thắng của Pháp tại cuộc Hành quân Camargue tổ chức ở cố đô. Hoành tráng lắm. Thâm trầm, người dân Huế cười tủm: “Một trung đoàn Việt Minh chống lại mười trung đoàn Pháp cùng bao nhiêu là máy bay, tàu chiến, xe bọc thép, đúng là châu chấu đá voi ”. Ngoại trừ  Tây trắng Tây đen, người Việt ta có ai còn lạ Nực cười châu chấu đá voi/ Tưởng rằng chấu ngã ai đời voi nghiêng. 
 
Tại tấm sơ đồ in kèm trong sách, tác giả Bernard Fall vẽ địa hình vùng đất và một mũi tên thật đậm với ghi chú: Con Đường Không Vui. Vậy là quãng đường mang cái tên đã đi vào lịch sử chiến tranh ấy, từ mùa hè 1953, sau cuộc Hành quân Camargue, không đơn thuần là “quãng đường tồi tệ ” chạy qua làng tôi ven Quốc lộ 1 mà còn có thêm Tỉnh lộ 68, nơi tôi được đồng bào đùm bọc mấy năm sau ngày vỡ mặt trận Huế 1947. Đây là một con đường khiêm tốn, chưa rải đá, khởi đầu từ góc Đông Nam Thành cổ Quảng Trị chạy dọc cánh đồng lúa ven bờ biển vào Nam, vòng lên tiếp nối với Quốc lộ 1 tại thị trấn Diên Sanh (Kẻ Diên), lỵ sở huyện Hải Lăng. Khách bộ hành đến chỗ quặt, có thể đi tiếp theo đường liên xã nhiều đoạn còn lầy lội vào địa phận tỉnh Thừa Thiên, rồi qua các làng Thanh Hương, Thế Chí Đông, Thế Chí Tây…  men phá Tam Giang vào tận cửa Thuận An. Cán bộ, bộ đội chúng tôi hồi ấy rất thông thạo con đường này, bởi phải qua cửa Thuận vào phía Nam thành phố Huế mới có lối đi thuận tiện vượt qua quốc lộ 1 ngược trở lại lên vùng chiến khu tỉnh Thừa Thiên. Vùng đồng bằng các huyện Triệu, Hải, Phong, Quảng, “hậu tuyến của Pháp” nói theo lời Bernard Fall, là hành lang giao thông quan trọng và cũng là hậu cứ của Trung đoàn 95 QĐNDVN. Đó là lý do cắt nghĩa tại sao thực dân Pháp quan tâm càn quét và đế quốc Mỹ mấy năm sau xục lùng tìm diệt ác liệt đến vậy vùng quê nghèo này. 
 
Điều trớ trêu và tàn bạo của chiến tranh là, chính tại Con Đường Không Vui ven tỉnh lộ 68 này, hơn một chục năm sau cuộc hành quân bủa vây Camargue của Pháp, ngày 21/2/1967 vị giáo sư – nhà báo, người kiên trì phản đối mọi cuộc can thiệp vào Việt Nam, tác giả những cuốn sách như Con Đường Không Vui, Việt Minh, Điện Biên Phủ một góc địa ngục… đã bỏ mình tại trận địa trong chiến dịch tìm diệt mang tên Chinook do quân Mỹ tiến hành. Chiều định mệnh ấy, ông theo một tiểu đoàn Lính thủy đánh bộ Mỹ hành quân, với mục đích sưu tầm thêm tư liệu sống, viết tiếp một cuốn sách nữa lên án chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, đồng thời kết hợp làm phóng viên tại chỗ, tường thuật trực tiếp từ Việt Nam cho Hãng Phát thanh – Truyền hình Mỹ CBS để có thêm tiền trang trải các chuyến đi.
 
Sau ngày giải phóng miền Nam, về thăm quê, tôi đứng bần thần trên “quãng đường tồi tệ”, rồi thả bộ theo “con đường không vui” nay đã an bình đi lần vào Nam tới chợ Kẻ Diên tìm cây đa bến cũ, nhớ bùi ngùi nhìn về phía Đường 68, nơi đã cưu mang tôi mấy năm công tác tại vùng địch hậu. Dựa trên cuốn băng thu âm dang dở Giáo sư Bernard Fall để lại, (in tại tập di cảo Last Reflections on a War xuất bản ở New York năm 1967) có thể hình dung những phút cuối cùng bi tráng của một học giả – nhà báo, “nhà bình luận quốc tế nổi tiếng nhất thế giới về chiến tranh Việt Nam”, nói theo lời Tạp chí Time, Mỹ, số ra ngày 3/3/1967. Ái mộ một người nước ngoài dấn thân vì chính nghĩa, tôi dành vài chục dòng trong bài bút ký Kẻ Diên kể lại cái chết của ông. Tiếng mìn nổ bất thần tại Con Đường Không Vui chiều hôm ấy cắt ngang cuộc tường thuật đang lên sóng phát thanh, dập tắt ngôi sao, tạo nên một tiếng bom nổ ngay giữa thủ đô Washington khuấy động chính giới và dư luận Hoa Kỳ. (Bài đăng Báo Nhân dân số ra ngày 23/8/1981). 
BĂNG THU ÂM DANG DỞ
 
Thông báo của Hạm đội Mỹ đóng căn cứ tại Đà Nẵng, học giả, nhà báo Bernard Fall (Bernard B. Fall), Giáo sư thực thụ Trường đại học Howard, Washington DC, qua đời ngày 21-2-1967 ở tuổi 40 do giẫm phải mìn trong khi cùng một Tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ hành quân tìm diệt tại Con Đường Không Vui, cách thành phố Huế 14 dặm về tây bắc, làm chấn động giới chính trị và học thuật phương Tây. Hầu hết các tờ báo quan trọng ở Mỹ và châu Âu đều dành vị trí trang trọng loan tin dữ. Quốc hội Pháp và Quốc hội Mỹ dành một phút mặc niệm, các nghị sĩ tả cũng như hữu cùng đứng lên im lặng cúi đầu. Tạp chí Time phát hành mươi hôm sau cái chết bất ngờ, viết: “Dải đất ấy (Con Đường Không Vui, nơi ông qua đời – PQ) quá quen thuộc với nhà dân sự, Giáo sư Bernard Fall, có mặt duy nhất hôm đó giữa các nhà binh toàn là Lính thủy đánh bộ đang tiến hành cuộc hành quân tìm diệt. Ông là người, qua các cuốn sách và nhiều chuyến đi đi về về đất nước ấy, đã tự tạo lập cho mình tên tuổi là nhà bình luận quốc tế nổi tiếng nhất thế giới về Việt Nam hiện nay”. Roger Lévy, Tổng Thư ký Ủy ban Nghiên cứu các vấn đề Thái Bình Dương, ca ngợi: “Ông có nếp quen sưu tìm tư liệu từ mọi nguồn, và không hề lùi bước trước gian nan nào”. Nhà văn Pháp Jean Lacouture, người đầu tiên xuất bản cuốn tiểu sử về Chủ tịch Hồ Chí Minh (1967), viết: “Cái chết của Bernard Fall là một thách thức đối với tất cả chúng ta, những người ít hay nhiều dũng cảm, thông minh hoặc tài năng, đã chiến đấu đòi (người Mỹ) ngưng cuộc thảm sát tại Việt Nam… Sau cái chết của người lính gác có trách nhiệm, một người lính gác đêm với cái nhìn dũng cảm, các chuyên gia về kỹ thuật leo thang chiến tranh Mỹ từ giờ lại được rảnh tay”. Nhà sử học Philippe Devillers, một chuyên gia khác về Việt Nam, nhận định: “Nếu nước Pháp mất đi một đại diện nổi bật (Mặc dù sống và làm việc nhiều năm tại Mỹ, lấy vợ người Mỹ, Bernard Fall vẫn giữ quốc tịch Pháp) thì Hoa Kỳ tổn thất hơn thế nhiều. Bernard Fall là người duy nhất, không có ai thay thế được… Nhân dân Mỹ đã mất đi một người rất hiếm, có thể nói cho họ rõ sự thật, giúp họ hiểu đất nước Việt Nam mà anh đã dấn thân hết mình khám phá không mệt mỏi”.
 
Khi đã có đủ độ lùi thời gian và bình tĩnh nhìn lại, nhà sử học Mỹ Leonard P. Liggio quả quyết: “Bernard Fall là nguồn tin chủ yếu cho công chúng Mỹ hồi bấy giờ về những diễn biến chính trị, xã hội tại Đông Nam châu Á và sự phản ứng của chính phủ Hoa Kỳ trước những diễn biến ấy. Rất nhiều lần, Bernard Fall ra sức chứng minh rằng các sự kiện thực tế diễn ra là hoàn toàn trái ngược những gì được viết trong “sử chính thống” do Bộ Ngoại giao Mỹ và Lầu năm góc trình bày thông qua các phương tiện báo chí, truyền thông”.

Năm 1997, bà quả phụ Dorothy Fall sang nước ta lần theo dấu vết của chồng nhằm hoàn tất cuốn tiểu sử-hồi ức về ông (Memories of a Soldier-Schoolar). Bà được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bà viết: “Đại tướng đã đọc các tác phẩm của Bernard Fall. Ông xúc động nói với tôi: Chồng bà là người đầu tiên viết về nhân dân Việt Nam chiến đấu vì hòa bình. Chồng bà là người đầu tiên dự đoán thất bại của Mỹ ở Việt Nam. Chồng bà nghiên cứu sâu về Việt Nam và hiểu rõ nhân dân chúng tôi lắm”. Bà Dorothy sẽ dành nhiều trang trong cuốn Memories… thuật lại “tấm lòng quý mến của Bernard Fall đối với đất nước Việt Nam và những cố gắng không mệt mỏi của ông giúp Việt Nam khỏi bị tàn phá bởi bom đạn, cũng chính là giúp Hoa Kỳ tránh thảm họa thất bại cuối cùng”.

Bernard Fall người Pháp gốc Do thái, sinh năm 1926 tại Viên, thủ đô nước Áo. Năm 1938, tránh nạn phát xít, gia đình ông di cư sang Paris, nhập quốc tịch Pháp, rồi tham gia chiến tranh chống Đức xâm lược. Năm 1940, cha ông bị quân đội Đức bắt và xử tử, mẹ ông bị đày vào trại tập trung, không bao giờ trở lại. Cậu bé Bernard 16 tuổi đã tham gia quân du kích Pháp hoạt động tại vùng núi Alpes, chờ đủ tuổi sung vào quân đội, Sư đoàn 2 Bắc Phi Quân Giải phóng Pháp, năm 1946, mới trở lại trường học. Ông sang Mỹ học thạc sĩ, được các giáo sư khuyến khích nên đi sâu nghiên cứu vấn đề chiến tranh Pháp ở Đông Dương, vấn đề nóng nhất lúc bấy giờ. Chàng nghiên cứu sinh đến Việt Nam lần đầu năm 1952, tìm tư liệu hoàn thành luận văn tiến sĩ.

Năm 1953, sau khi theo dõi một chiến dịch càn quét của quân đội Pháp có tên là Opération Camargue phối hợp lục, hải, không quân, mà ông coi là một “cuộc hành quân lớn ngang tầm Thế chiến II”, với mục đích bao vây, tiêu diệt Trung đoàn 95 QĐND Việt Nam đang hoạt động tại vùng này, ông đã quả quyết sự thất bại không thể nào tránh khỏi của Đạo quân viễn chinh Pháp tại Việt Nam. Với nhiều bài đăng trên báo chí phương Tây phản đối chiến tranh thực dân, Bernard Fall trở thành đối tượng theo dõi của tình báo Pháp. Không những nhiều bài viết của ông bị ngăn chặn trên đường gửi đến các tòa soạn, mọi thư riêng ông thăm hỏi người vợ chưa cưới đang ở Mỹ cũng đều bị kiểm duyệt săm soi.

Từ bài học thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ, ngay từ những ngày Mỹ bắt đầu can thiệp vào miền Nam Việt Nam, Tiến sĩ Bernard Fall đã khẳng định Mỹ nhất định rồi cũng sẽ thất bại. Ông kiên trì bác bỏ và tìm cách chứng minh quan điểm của những thế lực hiếu chiến Mỹ cứ một mực cho rằng sức mạnh quân sự và vũ khí tối tân có thể đè bẹp ý chí độc lập của một dân tộc, là hoàn toàn sai lầm. Bernard Fall đến lượt trở thành “đối tượng nguy hiểm cho nước Mỹ”, bị FBI theo sát từng bước chân.

Về nhân thân, Bernard Fall lại tự cho là mình có “thế mạnh”. Là cựu chiến binh Sư đoàn 2 Bắc Phi Pháp chống phát xít, được trao tặng Huân chương Giải phóng, Bernard Fall đến Việt Nam được các đơn vị Đạo quân viễn chinh Pháp ở đây đón tiếp như đồng đội, sẵn sàng mời tham gia các cuộc hành quân, nhờ thế ông dễ dàng thâm nhập các nguồn tư liệu quân sự. Sang thời Mỹ can thiệp sâu vào Việt Nam, với tư cách học giả, giáo sư một trường đại học tên tuổi tại thủ đô Washington, cộng tác viên của nhiều cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình hàng đầu Mỹ, ông dễ dàng hòa nhập vào các đơn vị quân đội Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Bernard Fall trước sau vẫn kiên định trong quan điểm phản đối chiến tranh xâm lược, và cố gắng hết mình đấu tranh đòi Mỹ mau chóng rút khỏi Việt Nam. Ông tự hào là trong quá trình thực hiện tại chỗ các công trình nghiên cứu, chưa bao giờ nhận trợ cấp của bất kỳ ai mà đều tự lo trang trải chi phí các chuyến đi dã ngoại.

Trong khoảng thời gian chưa tới 14 năm, từ cuối 1952 đến đầu 1967, Bernard Fall đã sang Việt Nam trước sau sáu lần, có chuyến đi kéo dài cả nửa năm, đặc biệt những năm tình hình chiến sự ngày càng nóng: 1965, 1966, 1967 năm nào ông cũng có một chuyến đến khảo sát tại chỗ. Ông đã cung cấp cho báo chí Mỹ, đặc biệt những tờ báo tên tuổi như The Washington Post, The New York Times… không chỉ nhiều bài, tin mà còn những tấm ảnh chụp tại chỗ có giá trị tố cáo chiến tranh. Có ảnh chụp cảnh làng quê Nam Việt Nam bốc cháy ngùn ngụt dưới trận mưa bom của Mỹ. Có ảnh chụp cảnh tù binh người Việt bị quân đội Mỹ cố tình bắt phơi nắng cho chết dưới sức nóng mặt trời như thiêu như đốt, trước con mắt lạnh lùng của những tên lính gác…

Trong sáu chuyến đi ấy, chuyến đến Bắc Việt Nam năm 1962 có tác động quyết định đến nhiều quan điểm chính trị của Bernard Fall. Ông được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh và một số nhà lãnh đạo gần gũi của Người, được Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp và trả lời phỏng vấn… Ông lên Điện Biên Phủ nghiên cứu thực địa, chuẩn bị tác phẩm Hell in Very Small Place. The Siege of Đien Bien Phu (Các bản dịch tiếng Pháp, tiếng Việt đều lấy đề Điện Biên Phủ, một góc địa ngục), xuất bản lần đầu năm 1966. Ông vào bờ bắc sông Bến Hải khảo sát “Mặt bên kia của vĩ tuyến 17” (tên một bài viết). Sau chuyến đi thăm miền Bắc Việt Nam, ông cho công bố nhiều bài trên các phương tiện truyền thông lớn ở Mỹ và Anh, trong đó có bài lời lẽ vô cùng trân trọng “cụ già tuổi ngoại bảy mươi với chòm râu bạc đi dép cao su”. Báo The Washington Post đăng bài ông phỏng vấn Thủ tướng Phạm Văn Đồng, tại đó Thủ tướng khẳng định “Mỹ không muốn có một cuộc chiến tranh dài nhưng rồi nó sẽ kéo dài. Mỹ không muốn thất bại ở Việt Nam nhưng rồi cuối cùng nhân dân Việt Nam là người chiến thắng”. Vẫn theo nhà sử học Leonard P. Liggio, sau chuyến đến miền Bắc nước ta năm 1962, qua thực tế cảm nhận được nơi đây, Bernard Fall nhấn mạnh sự khác biệt giữa hai miền Nam – Bắc; khác hẳn ở miền Bắc, chính quyền Sài Gòn ở miền Nam tuyệt nhiên không được bất kỳ sự ủng hộ nào từ dân chúng, mà “thiếu sự ủng hộ ấy, máy bay trực thăng và vũ khí hiện đại đến mấy cũng chẳng làm nên trò trống gì”.
 
(Còn nữa)

PHAN QUANG

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *