Ra mắt & Đặt trước “Leviathan” – tác phẩm triết học kinh điển của Thomas Hobbes

Leviathan – con quái vật biển được đề cập trong Kinh Cựu Ước, thường được mô tả là một sinh vật mạnh mẽ, đáng sợ và theo một số cách giải thích, nó tượng trưng cho sự hỗn loạn và các thế lực nguyên thủy của tự nhiên. Sách Job miêu tả rằng Leviathan nằm ngoài tầm kiểm soát của con người, là một sinh vật ghê gớm và không thể thuần hóa.

Sinh ra trong thời kỳ hỗn loạn của lịch sử nước Anh, Thomas Hobbes chịu ảnh hưởng nặng nề bởi sự bất ổn và bạo lực của thời đại. Chính vì thế, quan điểm của ông luôn cho rằng cần có một cơ quan quyền lực, tập trung, mà ông gọi là Leviathan, để ngăn chặn tình trạng hỗn loạn và bạo lực của trạng thái tự nhiên. Leviathan này, được hình thành bởi thỏa thuận tập thể của người dân, đứng trên tất cả trong thẩm quyền của mình để duy trì trật tự dân sự.

Xuất bản lần đầu năm 1652, chuyên luận triết học LEVIATHAN của Thomas Hobbes là một trong những ví dụ sớm nhất và có ảnh hưởng nhất về lý thuyết khế ước xã hội, với hình ảnh một con quái vật biển to lớn, hùng vĩ đóng vai trò đại diện phù hợp cho sức mạnh đầy cảm hứng của nhà nước mà Hobbes hình dung. Những ý tưởng của Hobbes trong LEVIATHAN đã đặt nền móng cho triết học chính trị hiện đại, đặc biệt là trong lĩnh vực lý thuyết khế ước xã hội và bản chất của nguyên thủ. Đến nay, cách mô tả ảm đạm của Hobbes về bản chất con người và lập luận của ông về quyền lực mạnh mẽ của trung ương vẫn tiếp tục gây tiếng vang trong các cuộc tranh luận đương thời về vai trò và giới hạn của chính phủ.

THÔNG SỐ SÁCH:

Tên đầy đủ: LEVIATHAN

Tác giả: Thomas Hobbes

Dịch giả: Nguyễn Phương Anh

Lĩnh vực: Triết học

Tủ sách: Kiến tạo

Số trang: 614

Cỡ sách: 16x24cm

Tình trạng bìa: Bìa cứng

Lượt in: Lần đầu

Cấp phép: NXB Đà Nẵng

Ngày phát hành: 15/9/2023

GIÁ BÁN: 570.000 VNĐ

Đặt trước sách để nhận ưu đãi 15% và freeship

Nhận Đặt Trước tới hết 23h00 ngày 14/9/2023. Sách được ship muộn nhất 5 ngày sau ngày phát hành. 

Lưu ý: Chúng tôi chỉ ship sách tới những khách phản hồi xác nhận qua email hoặc số điện thoại. Trong trường hợp quý khách không phản hồi hoặc phản hồi muộn, mà chưa thanh toán, quá 5 ngày sau email hoặc cuộc gọi của chúng tôi, chúng tôi rất tiếc phải hủy suất Đặt Trước, quý khách có thể đặt mua sách với Book Hunter hoặc tại các kênh phân phối khác. 

Nếu thuận tiện, bạn vui lòng thanh toán trước qua số tài khoản dưới đây, như một cách để giúp đỡ Book Hunter huy động đủ vốn in ấn.
Book Hunter tài khoản thanh toán

Để thực hiện dự án dịch tác phẩm Leviathan của Thomas Hobbes chúng tôi đã dành 3 năm làm việc (dịch, chỉnh sửa, hoàn thiện)  đầu tư khoản tiền ít nhất là 80 triệu (chưa tính chi phí giấy phép và quản lý), bao gồm:

– Nhuận bút: 30 triệu

– Hiệu đính: 15 triệu

– Dàn trang và giấy phép: 7 triệu

– In: 35 triệu

Chúng tôi hi vọng rằng bạn sẵn lòng Đặt Trước cuốn sách để chúng tôi có đủ nguồn lực tiếp tục các dự án sách khác trong thời gian tới. 

LEVIATHAN là dự án thuộc Tủ sách Kiến Tạo của Book Hunter

Tủ sách Kiến tạo được khởi động vào 8/1/2019 với ý tưởng khởi nguồn “Đưa tri thức vào mọi khía cạnh của cuộc sống”. Tủ sách là tập hợp những cuốn sách tri thức thực tiễn do Book Hunter dịch và xuất bản với mong muốn kiến tạo một đời sống tốt hơn trong tương lai. Đến nay, sau 4 năm không ngừng phát triển, Tủ sách Kiến tạo đang là tủ sách có số lượng tác phẩm nhiều nhất của Book Hunter với nhiều dòng sách khác nhau song cùng chung một mục đích kiến tạo và bền vững.

LEVIATHAN của Thomas Hobbes là cuốn sách thứ 12 được Book Hunter thực hiện và đưa vào Tủ sách.

Xin cảm ơn các độc giả, cũng như các đối tác cấp phép & phân phối của Book Hunter, để Tủ Sách Kiến Tạo ngày càng mở rộng!

Nội dung chính của LEVIATHAN - Thomas Hobbes

Ý tưởng chính:

Thomas Hobbes sử dụng cái tên LEVIATHAN như một cách ẩn dụ để thể hiện quyền lực và thẩm quyền tuyệt đối của nhà nước hoặc nguyên thủ xuất phát từ khế ước xã hội. Giống như Leviathan là một thế lực có sức mạnh to lớn trong các câu chuyện trong Kinh thánh, LEVIATHAN của Hobbes có quyền lực vô song để duy trì hòa bình, trật tự và ngăn chặn xã hội quay trở lại trạng thái tự nhiên.

Trạng thái tự nhiên cũng chính là chủ đề đầu tiên được Hobbes thảo luận trong cuốn sách. Ông coi đó là một điều kiện giả định của loài người khi không có bất kỳ xã hội dân sự hay chính phủ nào. Ở trạng thái này, các cá nhân hành động chỉ dựa trên mong muốn và nỗi sợ hãi của chính họ. Vì vậy nên, trạng thái tự nhiên được đặc trưng bởi cụm từ “đơn độc, nghèo nàn, dơ dáy, bạo lực và ngắn ngủi”. Trong trạng thái tự nhiên, không có thẩm quyền bao trùm để thực thi các quy tắc hoặc giải quyết tranh chấp. Sự thiếu thẩm quyền này, kết hợp với sự cạnh tranh về tài nguyên, dẫn đến tình trạng xung đột thường xuyên, mà Hobbes gọi là “cuộc chiến của tất cả chống lại tất cả.”

Để thoát khỏi nỗi kinh hoàng của trạng thái tự nhiên, các cá nhân đến với nhau và hình thành một khế ước xã hội. Trong thỏa thuận ấy, họ từ bỏ một số quyền tự do nhất định và phục tùng chính quyền có nguyên thủ để đổi lấy an ninh và trật tự. Nguyên thủ này có thẩm quyền tuyệt đối để duy trì hòa bình và thực thi khế ước xã hội. Hobbes lập luận rằng loại chính phủ duy nhất đủ mạnh để gắn kết xã hội lại với nhau và ngăn không cho nó quay trở lại trạng thái tự nhiên là một khối thịnh vượng chung được cai trị bởi một nguyên thủ tuyệt đối, và đó chính là cái ông gọi là “Leviathan”. Hobbes tin rằng nguyên thủ phải có quyền lực tuyệt đối để thực thi luật pháp, chỉ huy quân đội và duy trì trật tự. Nếu không có sức mạnh như vậy, xã hội có nguy cơ quay trở lại trạng thái hỗn loạn của tự nhiên.

LEVIATHAN cũng đi sâu vào chủ đề tôn giáo. Hobbes thảo luận về sự tương thích giữa các lý thuyết chính trị của ông với các học thuyết Cơ đốc giáo khác nhau. Ông chỉ trích một số niềm tin tôn giáo vì chúng có khả năng gây bất ổn cho nhà nước và gợi ý rằng nhà thờ nên phục tùng nhà nước để tránh xung đột quyền lực.

Về tác giả:

Thomas Hobbes là một trong những nhân vật lỗi lạc trong bối cảnh triết học chính trị hiện đại. Sinh ra tại thị trấn cổ kính Westport, Wiltshire, vào năm 1588, cuộc đời và suy nghĩ của Hobbes bị ảnh hưởng sâu sắc bởi thời kỳ hỗn loạn mà ông sống, đặc biệt là Nội chiến Anh.

Trọng tâm các tác phẩm triết học của Hobbes là quan niệm về bản chất con người. Ông cho rằng con người, về cốt lõi, hành động vì lợi ích cá nhân. Nếu không có bất kỳ cơ cấu điều tiết nào, ông tin rằng đặc điểm cố hữu này có thể khiến xã hội rơi vào hỗn loạn và bạo lực không thể kiềm chế.

Những suy nghĩ mang tính suy đoán của Hobbes đã giúp ông hình dung ra “trạng thái tự nhiên”, một tình trạng tiền xã hội giả định. Ở trạng thái thô sơ này, con người sẽ tồn tại trong một cuộc xung đột không ngừng nghỉ với nhau, dẫn đến một cuộc sống được mô tả đúng nhất là “đơn độc, nghèo nàn, dơ dáy, bạo lực và ngắn ngủi”.

Tuy nhiên, Hobbes không coi đây là số phận không thể thay đổi được đối với nhân loại. Ông đưa ra khái niệm “khế ước xã hội” – một khế ước tưởng tượng mà trong đó các cá nhân tìm cách thoát khỏi những nguy hiểm của trạng thái tự nhiên, sẵn sàng từ bỏ một số quyền tự do nhất định. Đổi lại, họ có được sự an ninh và trật tự của một xã hội được quản lý.

Điểm mấu chốt cho sự sắp xếp xã hội này, như Hobbes đã hình dung, là việc thiết lập một chế độ có chủ quyền tuyệt đối. Quyền lực trung ương này – dù được thực hiện thông qua một vị vua hay một hội đồng – đều mang trong mình một quyền lực vô song. Chức năng chính của nó là ngăn chặn xã hội rơi vào tình trạng hỗn loạn.

Năm 1651, Hobbes trình bày rõ ràng những lý thuyết này trong kiệt tác của mình, “Leviathan”. Kiệt tác này không chỉ giải thích niềm tin của ông về sự cần thiết của một người cai trị toàn năng mà còn gây ra nhiều tranh cãi, đặc biệt là về quan điểm tôn giáo trong cuốn sách: Hobbes cho rằng nhà thờ nên hoạt động dưới sự giám sát của nhà nước, một quan điểm không được chấp nhận rộng rãi vào thời của ông.

Ngày nay, cái bóng của Hobbes bao trùm lên nhiều lĩnh vực, bao gồm khoa học chính trị, triết học và luật học. Thomas Hobbes vẫn là một nhân vật không thể phai mờ trong tư tưởng chính trị. Những khám phá của ông về bản chất con người, sự hình thành xã hội và bản chất của quyền lực tiếp tục là nguồn thảo luận và tranh luận phong phú trong thế giới đương đại.

Mục lục:

GIỚI THIỆU

PHẦN 1: VỀ CON NGƯỜI
Chương 1: Về cảm quan (sense)
Chương 2: Về sự tưởng tượng
Chương 3: Về hệ quả (Consequence) hay dòng tưởng tượng
Chương 4: Về lời nói (Speech)
Chương 5: Về lý luận và khoa học
Chương 6: Về khởi đầu bên trong của các chuyển động tự nguyện, thường được gọi là các ĐAM MÊ (Passions). Và các lời nói thể hiện chúng.
Chương 7: Về các mục đích hay sự giải quyết của diễn ngôn (Discourse)
Chương 8: Về những đức tính thường được gọi là tài chí; và những khuyết tật đối nghịch với chúng
Chương 9: Về một số đối tượng của kiến thức
Chương 10: Về quyền lực, giá trị, phẩm giá, danh dự và sự xứng đáng
Chương 11: Về sự khác nhau về cung cách 
Chương 12: Về tôn giáo
Chương 13: Về trạng thái tự nhiên của con người, liên quan đến diễm phúc, và sự khốn khổ của họ
Chương 14: Về luật thứ nhất và thứ hai của Tạo hóa, và về khế ước
Chương 15: Về các định luật khác của Tạo hóa
Chương 16: Về ngôi, tác giả, và những thứ được đại diện

PHẦN 2: VỀ CW
Chương 17: Về các lý do, sự hình thành, và định nghĩa của một CW
Chương 18: Về các quyền của Nguyên thủ được lập ra
Chương 19: Về một số dạng CW được lập ra, và sự tiếp nối SP
Chương 20: Về quyền thống trị từ dòng tộc (Dominion paternal)
và chuyên quyền
Chương 21: Về quyền tự do của người dân
Chương 22: Về các hệ thống dân sự chính trị và tư nhân
Chương 23: Về những người thừa hành công vụ (publique
ministers) thuộc SP
Chương 24: Về sự nuôi dưỡng và nhân rộng một CW
Chương 25: Về việc cố vấn
Chương 26: Về luật dân sự
Chương 27: Về tội phạm, sự miễn và giảm tội
Chương 28: Về hình phạt, và phần thưởng
Chương 29: Về những điều khiến CW yếu đi hoặc có xu hướng dẫn đến sự giải tán CW
Chương 30: Về chức vụ của người Đại diện Nguyên thủ
Chương 31: Về bản chất Vương quốc của Thượng Đế

PHẦN 3: VỀ MỘT CW CƠ ĐỐC GIÁO
Chương 32: Về các quy tắc chính trị Cơ Đốc
Chương 33: Về số lượng, niên đại, phạm vi, thẩm quyền, và những người diễn giải các cuốn Kinh Thánh
Chương 34: Về ý nghĩa của LINH KHÍ, THIÊN THẦN, và LINH CẢM trong các cuốn Kinh Thánh
Chương 35: Về nghĩa của “Vương quốc của Thượng Đế”, “tính thánh”, “thiêng liêng”, và “bí tích” trong Kinh Thánh
Chương 36: Về Lời của Thượng Đế (Word of God) và của các nhà tiên tri
Chương 37: Về các phép màu, và công dụng của chúng
Chương 38: Về ý nghĩa của CUỘC SỐNG VĨNH HẰNG, ĐỊA NGỤC, SỰ CỨU RỖI (SALVATION), THẾ GIỚI SẮP TỚI, và SỰ CHUỘC LẠI (REDEMPTION) trong Kinh Thánh
Chương 39: Về nghĩa của từ “Giáo hội” (Church) trong Kinh Thánh
Chương 40: Về các quyền của Vương quốc của Thượng Đế nằm ở
Abraham, Moses, các Thượng tế, và Vua xứ Judea
Chương 41: Về nhiệm vụ của Đấng Cứu Rỗi
Chương 42: Về quyền lực của Giáo hội
Chương 44: Về điều CẦN THIẾT để một người được nhận vào Vương quốc Thiên đường

PHẦN 4: VỀ VƯƠNG QUỐC BÓNG TỐI
Chương 45: Về sự tăm tối tâm linh khi DIỄN GIẢI SAI Kinh Thánh Về Quỷ thần học, và các tàn dư khác của tôn giáo Dân ngoại
Chương 46: Về Bóng tối từ Triết học vô bổ và các phong tục huyền
hoặc
Chương 47: Về lợi ích đến từ Bóng tối đó, và đó là thứ có lợi cho ai
TÓM TẮT VÀ KẾT LUẬN

Căn nguyên của cảm quan đến từ ngoại vật hay vật thể, nó tác động lên bộ phận tương ứng với mỗi giác quan một cách trực tiếp như trong vị giác hay xúc giác, hoặc một cách gián tiếp như trong thị giác, khứu giác, và thính giác. Rồi qua các dây thần kinh, các loại dây khác, và các màng cơ thể, tác động này truyền vào não và tim. Ở tim, nó tạo nên sức cản, áp lực ngược trở lại, hoặc nỗ lực thoát ra – nỗ lực này vì là “ra phía ngoài” (“Outward”) nên có vẻ như ám chỉ một thứ gì đó ở bên ngoài. Và thứ bề ngoài hay ảo giác (fancy) này là thứ mà người ta gọi là “cảm quan”, trong đó thứ tác động lên mắt là ánh sáng hay màu sắc có hình dạng; với tai thì là âm thanh; với mũi thì là mùi hương; với lưỡi và miệng thì là vị; và với những phần còn lại của cơ thể thì là sự nóng, lạnh, cứng, mềm, và các tính chất khác mà chúng ta phân biệt bằng cảm giác (feeling). Tất cả những tính chất được cho là cảm nhận được (Sensible) đều nằm trong vật thể tạo ra chúng, nhưng vật chất chuyển động theo nhiều cách và ảnh hưởng một cách đa dạng lên các bộ phận cơ thể của ta. Những thứ bị tác động trong ta chẳng qua cũng chỉ là các dạng chuyển động (vì chuyển động chỉ có thể gây ra chuyển động khác). Nhưng với ta, sự hiện diện của chúng lại là ảo giác, cũng giống như giấc mơ thường trông như thật vậy. Và vì nhấn vào mắt hay xoa mắt sẽ khiến ta thấy như có ánh sáng xuất hiện, còn ấn vào tai thì như tạo nên tiếng ồn, vậy nên các vật thể mà ta nhìn thấy hay nghe thấy hẳn cũng tạo ra ánh sáng hay tiếng ồn bằng các tác động mạnh nhưng không thấy được. Vì nếu những màu sắc và âm thanh đó nằm trong các vật thể hay đồ vật tạo nên chúng, thì chúng không thể bị tách rời khỏi những vật đó, như khi ta nhìn qua gương hay nghe tiếng vang vọng lại, tức là khi ta biết rằng thứ mình đang thấy nằm ở một nơi còn sự hiện diện của nó lại nằm ở nơi khác. Và mặc dù ở một khoảng cách nào đó thì bản thân thực thể này trông có vẻ như đang chứa thứ ảo giác mà chúng tạo ra cho ta, nhưng vật thể này là một thứ, còn hình ảnh hay ảo giác kia lại là một thứ khác. Do vậy, trong mọi trường hợp, (như tôi đã nói) cảm quan chẳng qua chỉ là ảo giác gốc được tạo ra do áp lực hay chuyển động của các ngoại vật tác động lên mắt, tai, và các bộ phận khác của cơ thể ta.

Những từ “công bằng” hay “bất công” khi được dùng để miêu tả con người thì mang một nghĩa, còn khi dùng để miêu tả hành động thì lại mang một nghĩa khác. Khi được dùng cho con người, đó là những từ để chỉ cung cách tuân theo hay không tuân theo lý trí. Nhưng khi được dùng cho hành động thì đó là những từ để chỉ việc những hành động cụ thể, chứ không phải cung cách hay cách sống, có tuân theo lý trí hay không. Do đó, một người công bằng là người cố gắng hết sức để đảm bảo rằng mọi hành động của mình là công bằng, còn người bất công là người lơ là việc đó. Những người như vậy trong ngôn ngữ của chúng ta thường được gán cho các từ “ngay thẳng” và “bất chính”, hơn là “công bằng” và “bất công”, dù nghĩa là như nhau. Do đó, một người ngay thẳng không mất đi danh hiệu này chỉ vì một hay và hành động bất công đến từ đam mê chợt đến, hay vì các sai sót về sự việc hay con người. Còn một người bất chính cũng không mất đi tính cách của mình vì những hành động mình làm hoặc nhịn không làm vì nỗi lo sợ, bởi vì ý nguyện của người đó không do công lý kiểm soát, mà do lợi ích trước mắt từ việc người đó làm. Thứ đem đến cho các hành động trần tục tiếng thơm của công lý là tính cao quý hay hào hiệp nào đó của lòng can đảm (thường ít được thấy), thứ mà qua đó một người coi việc lừa dối hay thất hứa là việc đáng khinh bỉ nếu đó là để giữ sự mãn nguyện cho đời mình. Sự công bằng này về cung cách là ý nghĩa của việc gọi công bằng là một đức hạnh, và gọi bất công là một thói xấu.

Các thực thể chính trị đa dạng hết sức, vì chúng không chỉ khác nhau về lý do trong việc lập nên mà trong đó đã có sự đa dạng vô cùng rồi, mà còn khác nhau về các giới hạn về thời gian, địa điểm, và số lượng. Về mục đích thì một số được ban ra để điều hành. Trước tiên, chính quyền của một tỉnh có thể được giao cho một Hội đồng, trong đó các nghị quyết đều phụ thuộc vào đa số phiếu bầu, và khi đó hội đồng này là một thực thể chính trị và quyền lực của họ được giới hạn bởi nhiệm vụ. Từ “tỉnh” (province) chỉ một nhiệm vụ hay việc đảm đương công việc, trong đó người có trách nhiệm với việc này giao cho một người khác quản lý dưới quyền mình. Do đó, khi trong một CW gồm nhiều nước, và mỗi nước có luật lệ khác nhau hay ở cách xa nhau, còn việc điều hành chính quyền được giao cho nhiều người khác nhau, thì những nước không có Nguyên thủ cư trú mà quản lí bằng việc ủy thác sẽ được gọi là các tỉnh. Nhưng có ít trường hợp chính quyền của một tỉnh là một hội đồng sinh sống ở chính tỉnh đó. Người La Mã có quyền cai quản nhiều tỉnh, nhưng lại luôn điều hành chúng bằng các tổng đốc (presidents), và các pháp quan (praetors), chứ không phải là các hội đồng như cách họ điều hành Thành Rome và các khu vực quanh đó. Cũng tương tự vậy, khi có các nhóm dân được gửi đi từ nước Anh để đến gây dựng Virginia và Sommer-Ilands, dù việc điều hành những người này là dưới quyền của các hội đồng ở London, nhưng các hội đồng đó chưa bao giờ giao chính quyền dưới quyền mình cho bất cứ hội đồng nào ở đó, mà ở mỗi đồn điền họ cử đến một thống đốc (governors). Bởi vì mặc dù mỗi người khi có thể có mặt thì đều muốn tham gia vào chính quyền, nhưng ở nơi họ không thể có mặt thì cũng đều có xu hướng muốn giao quyền điều hành lợi ích chung của họ cho một chế độ Quân chủ hơn là một dạng chính quyền dân bầu. Điều này cũng được thể hiện rõ qua những người có gia sản lớn, khi không muốn tốn công điều hành công việc của mình thì họ sẽ chọn việc tin tưởng giao phó nó cho một người phụ tá duy nhất, thay vì cho một nhóm bạn bè hay một nhóm phụ tá của mình. Nhưng dù thực tế có như thế nào thì ta cũng có thể cho rằng chính quyền của một tỉnh hay một khu thuộc địa có thể được giao cho một hội đồng. Trong trường hợp đó thì điều tôi muốn nói ở đây là món nợ nào mà hội đồng đó đã làm giao kèo để vay mượn, hay bất cứ hành động bất hợp pháp nào mà hội đồng đó ra sắc lệnh, thì chỉ là hành động của những người tán thành thôi, chứ không phải của bất kỳ ai phản đối hay vắng mặt, vì những lý do đã nêu trên. Ngoài ra, một hội đồng CW cư trú ngoài phạm vi khu thuộc địa mà họ nắm quyền thì không thể thực thi quyền lực đối với người hay hàng hóa của bất kỳ ai thuộc nhóm thuộc địa đó để mà bắt nợ, hay đòi người dân có các bổn phận khác tại bất kỳ nơi nào không nằm trong khu thuộc địa, vì họ không có thẩm quyền hay quyền hành ở những nơi khác, mà phải chịu sự giải quyết mà luật pháp ở nơi đó đưa ra. Và mặc dù hội đồng có thể thu tiền phạt từ bất cứ thành viên nào của mình do vi phạm luật pháp họ đã đặt ra, nhưng ở ngoài khu thuộc địa thì họ không có quyền thực thi điều đó. Và điều được nói ở đây về các quyền của một hội đồng trong việc điều hành một tỉnh hay một thuộc địa thì cũng được áp dụng với hội đồng điều hành một thị trấn, trường đại học, cao đẳng, hay một nhà thờ, hoặc cho bất cứ hình thức nào khác để điều hành các ngôi của con người.

Tất cả các lời tiên báo, ngoại trừ của nhà tiên tri tối cao đưa ra, thì cần phải được mọi thần dân kiểm tra Vào thời Kinh Cựu Ước đã có những tranh cãi như vậy giữa các nhà tiên tri có khải tượng (Visionary Prophets), người này cãi lại người kia và hỏi nhau: “Linh Khí đã rời khỏi tôi và nhập vào ông từ khi nào?” như giữa Michaiah và những người còn lại trong số bốn trăm người; họ nói dối nhau (như trong Gr 14:14), và có những tranh cãi về Kinh Tân Ước như hiện nay giữa các nhà tiên tri tâm linh (Spiritual Prophets). Vậy nên mỗi người thời đó cũng như bây giờ đều cần phải dùng lý trí tự nhiên của mình để áp dụng các nguyên tắc Thượng Đế đưa ra cho ta nhằm phân biệt thật giả giữa tất cả những lời tiên tri. Trong số các nguyên tắc đó thì ở Kinh Cựu Ước có một là giáo lý phù hợp với những gì nhà tiên tri tối cao Moses đã dạy họ, và hai là khả năng thần kỳ để tiên đoán thứ mà Thượng Đế sẽ làm cho xảy ra, như tôi đã chỉ ra là từ Đnl 13:1, v.v... Còn trong Kinh Tân Ước chỉ có một dấu hiệu, và đó là việc thuyết giảng giáo lý rằng Jesus là Christ, nghĩa là Vua của người Do Thái như đã được hứa trong Kinh Cựu Ước. Bất kì ai phủ nhận điều này thì đều là một nhà tiên tri giả. cho dù người đó có vẻ như tạo được phép mầu gì đi nữa, còn người thuyết giảng điều đó thì là một nhà tiên tri chân chính. Vì sau khi nói rằng sẽ xuất hiện những nhà tiên tri giả, (1 Ga 4:2) Thánh John đã giải thích về phương cách kiểm tra các linh khí xem có phải của Thượng Đế hay không: “Các người hãy nhận ra Linh Khí của Thượng Đế qua điều này. Mọi linh khí nhận rằng Jesus Christ sẽ hiện ra bằng xương thịt thì là thuộc về Thượng Đế”, nghĩa là được thừa nhận và cho phép làm nhà tiên tri của Thượng Đế. Đó là một người ngoan đạo hoặc là một trong số những người được chọn không phải vì đã thú nhận, tuyên bố, hay thuyết giảng rằng Jesus là Christ, mà vì đó là một nhà tiên tri được thừa nhận. Vì đôi khi Thượng Đế nói qua những nhà tiên tri mà Người chưa chấp nhận ngôi, như đã làm với Baalam, hay như khi Người báo trước cho Saul về cái chết qua Phù thủy của Endor. Ngoài ra, trong câu tiếp theo “Mọi linh khí không thừa nhận rằng Jesus Christ sắp đến bằng xương thịt thì không phải là thuộc về Christ. Mà đó là linh khí của Kẻ Chống Christ (Antichrist)”. Vậy nên nguyên tắc là đã rõ ràng cho cả hai vế, nghĩa là nhà tiên tri chân chính là người thuyết giảng rằng Đấng Messiah đã đến dưới hình dạng của Jesus, còn nhà tiên tri giả là người phủ nhận việc này và tìm kiếm Người trong kẻ giả danh nào đó ở tương lai, kẻ sẽ tự nhận lấy vinh danh này một cách dối trá, kẻ mà vị Sứ đồ đã gọi một cách chính xác là Kẻ Phản Christ. Vì thế mỗi người cần phải xem xét xem ai là Nhà tiên tri tối cao, nghĩa là ai là Phó vương (Vicergent) của Thượng Đế trên thế gian, có quyền hành cai trị dân Cơ Đốc chỉ sau Thượng Đế. Họ cần coi giáo lý mà người đó lệnh cho được dạy dưới danh nghĩa Thượng Đế là một quy tắc. Và vì thế họ cũng phải kiểm tra và thử nghiệm tính thực hư của những giáo lý mà những nhà tiên tri giả mạo đưa ra bất cứ lúc nào, dù những người này có phép mầu hay không. Nếu thấy chúng đi ngược với quy tắc kia thì họ cần làm như người dân xưa đã làm, những người này đã đến chỗ Moses và than phiền rằng có vài ai đó đã tiên tri trong Trại và họ nghi ngờ là những người đó không có quyền làm vậy. Họ cần để cho Nguyên thủ cho phép hay cấm những người đó tùy ý ngài, như người dân đã để cho Moses làm vậy. Nếu ngài cấm những người đó thì họ không được nghe theo lời những người này, còn nếu ngài thừa nhận những nhà tiên tri này, thì mỗi người phải vâng lời họ như vâng lời những người mà Thượng Đế đã trao cho một phần linh khí Nguyên thủ của họ. Vì khi người Cơ Đốc không coi Nguyên thủ Cơ Đốc của mình là nhà tiên tri của Thượng Đế thì họ sẽ phải tự coi những giấc mơ của chính mình là những lời tiên tri chỉ dẫn bản thân, và coi những xáo trộn trong tim mình là Linh Khí của Thượng Đế. Hoặc là họ sẽ phải chịu sự chỉ đạo của một Vương tử lạ nào đó, hay bị ai đó trong số các thần dân khác bỏ bùa khiến cho họ nổi loạn bằng việc phỉ báng chính quyền, dù không có sự nhiệm mầu nào để chứng minh cho lời kêu gọi của người đó. Đôi khi thì họ may mắn mà thành công và được miễn tội thì điều này sẽ hủy hoại mọi luật lệ, cả luật thiêng lẫn luật trần tục, làm cho mọi trật tự, chính quyền, và xã hội trở thành bạo lực hỗn loạn, rồi sau đó là dẫn đến nội chiến.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *