0
Sự chuyên chế của kiểm tra
Trích đoạn từ cuốn sách "Trường học kém thành tích" của John Holt.
Trường học kém thành tích là một tập hợp các bài tiểu luận và phản ánh của John Holt đi sâu vào những sai sót và thiếu thốn của hệ thống giáo dục truyền thống. Holt xem xét những lý do đằng sau thành tích kém ở trường học và thách thức những giả định phổ biến về trí thông minh, động lực và học tập.
Trong cuốn sách, Holt khám phá lí do cấu trúc cứng nhắc và chương trình giảng dạy tiêu chuẩn hóa của các trường học thường không đáp ứng được nhu cầu và sở thích đa dạng của học sinh. Ông chỉ trích việc quá chú trọng vào điểm số, bài kiểm tra và sự cạnh tranh, cho rằng những yếu tố này có thể cản trở việc học tập thực sự và không khuyến khích học sinh khám phá niềm đam mê và thế mạnh của chính mình.
Holt cũng đề cập đến tác động của các yếu tố xã hội trong môi trường học đường, chẳng hạn như áp lực từ bạn bè và nỗi sợ thất bại, đối với động lực và sự tham gia của học sinh. Ông gợi ý rằng một môi trường giáo dục mang tính nuôi dưỡng và hỗ trợ nhiều hơn, coi trọng tính cá nhân, sự sáng tạo và động lực nội tại, là điều cần thiết để giải quyết tình trạng kém hiệu quả.
Cho phép tôi nói thẳng. Hầu như tất cả các nhà giáo dục đều cảm thấy rằng kiểm tra là một phần cần thiết của giáo dục. Tôi hoàn toàn không đồng ý – Tôi không nghĩ rằng kiểm tra là cần thiết, hữu ích, hoặc thậm chí nó còn đáng lên án. Trên hết, kiểm tra có hại nhiều hơn lợi; tệ nhất, nó cản trở, bóp méo và làm hỏng quá trình học tập. Những người kiểm tra cố nói rằng các kỹ thuật kiểm tra đang được cải tiến liên tục và cuối cùng có thể được hoàn thiện. Có thể như vậy nhưng không có cải tiến có thể tưởng tượng nào trong kiểm tra sẽ vượt qua được sự phản đối của tôi đối với nó. Mối quan tâm chính của chúng ta không phải là cải thiện việc kiểm tra, mà là tìm cách loại bỏ nó.
Tất nhiên, trong một số trường hợp, các bài kiểm tra là cần thiết. Nếu một người muốn chơi vĩ cầm trong một dàn nhạc giao hưởng, thì nên yêu cầu anh ta chứng tỏ rằng anh ta đáp ứng các tiêu chuẩn của dàn nhạc. Nếu anh ta muốn làm việc với những người không nói tiếng Anh, anh ta phải chứng minh rằng anh ta có thể nói được ngôn ngữ của họ. Nếu anh ta muốn có giấy phép thiết kế và xây dựng các tòa nhà, anh ta phải chứng tỏ rằng anh ta đủ hiểu biết để giữ cho các công trình kiến trúc của mình không bị đổ. Nếu anh ta muốn trở thành một bác sĩ phẫu thuật, anh ta phải chứng minh với các cơ quan có thẩm quyền trên bàn mổ, không phải là một mảnh giấy rằng anh ta có thể phẫu thuật cho mọi người mà không giết chết họ.
Tương tự như trên là những bài kiểm tra mà mọi người tự đưa ra để kiểm tra sự tiến bộ của chính họ. Người đánh máy gõ các bài tập để tăng tốc độ của cô ấy mỗi phút. Người nhạc sĩ chơi các thang âm và nghiên cứu, và chơi những đoạn khó bằng máy đánh nhịp. Người chơi quần vợt đánh hàng chục quả bóng, cố gắng đưa chúng chính xác vào góc này hoặc góc kia. Bác sĩ giải phẫu tim mổ ếch, huấn luyện các ngón tay của mình để làm việc với các mạch máu nhỏ trong không gian chật hẹp. Vận động viên trượt băng thực hiện các động tác học đường, tiền vệ chuyền về phía cuối sân, và vận động viên ném bóng ném đi ném lại cho người bắt bóng của anh ta. Phi công tập hạ cánh hết lần này tới lần khác. Học sinh, nếu khôn ngoan, sẽ ghi thông tin quan trọng vào thẻ khi nhớ – một trong những công cụ dạy học linh hoạt nhất, hiệu quả nhất và rẻ nhất trong tất cả các loại công cụ dạy học- và xem lại toàn bộ chúng theo nhiều trật tự câu hỏi khác nhau. Nói tóm lại, tất cả các thực hành nghiêm túc có thể được coi là một cách mà người học kiểm tra kỹ năng và kiến thức của chính mình.
Nhưng hầu như không có bài kiểm tra nào được thực hiện trong trường học thuộc loại này.
Theo quy định, học sinh không phải kiểm tra để chứng minh rằng chúng có thể thực hiện các hoạt động theo lựa chọn mà không gây nguy hiểm cho người khác hay hủy hoại tập thể chung. Kiểm tra ở trường được thực hiện vì nhiều lý do khác nhau, và nhìn chung, chúng ta không trung thực lắm về những lý do này. Đối với công chúng và với chính chúng ta, giáo viên nói rằng kiểm tra trẻ em là để tìm hiểu những gì chúng đã học được, để có thể biết cách giúp chúng học tốt hơn. Điều này khoảng 95 phần trăm không đúng sự thật. Có hai lý do chính khiến chúng ta kiểm tra trẻ em: thứ nhất là để đe dọa chúng làm những gì chúng ta muốn, và thứ hai là để cho chúng ta cơ sở để đưa ra các phần thưởng và hình phạt mà hệ thống giáo dục cũng như tất cả các hệ thống cưỡng chế phải vận hành. Mối đe dọa của một bài kiểm tra khiến học sinh phải làm bài tập; kết quả của bài kiểm tra cho phép chúng ta thưởng cho những trẻ có vẻ làm tốt nhất. Nền kinh tế của trường học, giống như của hầu hết các xã hội, hoạt động dựa trên lòng tham và sự sợ hãi. Các bài kiểm tra khơi dậy nỗi sợ hãi và thỏa mãn lòng tham.
Hệ thống này có thể cần thiết, hoặc ít nhất là không thể tránh khỏi. Chúng ta có thể đúng – dù tôi nghi ngờ việc cảm thấy rằng nhiệm vụ của chúng ta là quyết định những gì trẻ em nên học. Và chúng ta có thể đúng khi nghĩ rằng cách tốt nhất để khiến trẻ học những gì chúng ta quyết định chúng nên học là phần thưởng hay hình phạt tương ứng với thành công hoặc thất bại – dù một lần nữa tôi không nghĩ như vậy. Tuy nhiên, trong bất kỳ trường hợp nào, đây hầu như luôn là mục đích của các bài kiểm tra ở trường và chúng ta thật sự không trung thực nếu giả vờ rằng chúng là vì bất kỳ mục đích nào khác.
Nhiều giáo viên, và thậm chí cả học sinh, nói và nghiêm túc tin rằng ngay cả khi các bài kiểm tra đe dọa học sinh, thì chúng vẫn có thể là thước đo chính xác chất lượng công việc của học sinh. Đối với tôi, dường như rõ ràng là mối đe dọa do một bài kiểm tra gây ra càng lớn thì nó càng ít đo lường được chính xác, và càng ít khuyến khích học tập hơn rất nhiều. Có nhiều lý do cho việc này. Một trong những điều rõ ràng nhất và quan trọng nhất là bất cứ khi nào một học sinh biết rằng đang bị đánh giá qua kết quả của các bài kiểm tra, học sinh sẽ chuyển sự chú ý của mình từ tài liệu sang người kiểm tra. Điều tối quan trọng không phải là khóa học hay ý nghĩa của nó đối với học sinh, mà là bất cứ điều gì trong tâm trí của người kiểm tra. Việc học khó trở thành một cuộc tìm kiếm mà là một cuộc đấu trí thì đúng hơn. Người kiểm tra, dù học sinh là ai, không còn là người hướng dẫn và trợ giúp, mà là kẻ thù.
Vài năm trước, khi lướt qua hiệu sách vào một ngày nọ, tôi bắt gặp một nghiên cứu xã hội học toàn diện về các sinh viên y khoa. Tôi bắt đầu đọc một phần của nó, có lẽ để tìm hiểu xem liệu các sinh viên y khoa có bị cản trở bởi những nỗi sợ hãi, những chiến lược tự bảo vệ và lảng tránh giống như những thứ đã cản trở các học sinh lớp năm của tôi hay không. Tôi sớm nhận ra rằng họ quả là đã như vậy. Các tác giả đã phỏng vấn rất nhiều sinh viên, ở các giai đoạn khác nhau trong quá trình học y khoa của họ. Hết lần này đến lần khác, những chàng trai trẻ này nói rằng họ đã vào trường y một cách say mê, háo hức học y khoa, chỉ để thấy mình liên tục bị kiểm tra, kiểm tra và kiểm tra và biết được rằng nghề nghiệp tương lai của họ phụ thuộc gần như hoàn toàn vào việc họ học có kết quả tốt như thế nào trong các bài kiểm tra này. Chẳng mấy chốc, việc chuẩn bị cho các kỳ thi đã thay thế việc học y như là công việc cơ bản của trường y. Chẳng bao lâu sau, họ bắt đầu đánh giá và gán cho các giáo sư của mình, không phải theo kỹ năng hay kiến thức, mà theo “sự công tâm” của họ, một giáo sư công tâm là người ra các bài kiểm tra có thể dự đoán được và do đó có thể học được.
Cảm giác rằng bài kiểm tra là một cái bẫy và người kiểm tra là kẻ thù, tôi thường cảm thấy như vậy và ngay cả trong những tình huống mà người kiểm tra không có quyền đối với tôi. Một trong những học sinh hiện tại của tôi thích cắt các câu đố tự kiểm tra từ các tờ báo và tạp chí, và thỉnh thoảng cậu bé chạy đến chỗ tôi trong hành lang ở trường, vẫy một tờ giấy và thách thức: “Hãy xem thầy thông minh đến như thế nào nào” hoặc “Hãy xem thầy lái xe giỏi như thế nào!” hay đại loại thế. Ngay lập tức, tôi cảm thấy bị tấn công. Ai đó đang cố biến tôi thành kẻ ngốc. Nếu học sinh thực sự hỏi tôi một số câu hỏi trong bài kiểm tra, và tôi hiếm khi để cậu ấy đi quá xa, tôi sẽ nghĩ, “Có gì mờ ám ở đây nhỉ? Cậu bé này đang âm mưu điều gì? Tâm trí của cậu ấy hoạt động như thế nào?” Tôi đang ở trong một cuộc đấu tay đôi căng thẳng và riêng tư như một ván cờ.
Nếu một bài kiểm tra là một cuộc đấu tay đôi với kẻ thù sẵn sàng hạ gục bạn, thì bất kỳ và mọi cách đánh lừa hắn đều hợp pháp. Thái độ này là gốc rễ của hầu hết các vụ gian lận đã trở nên phổ biến gần đây, đặc biệt là ở những học sinh thành công ở các trường “tốt”. Không dễ để vạch ra ranh giới giữa việc đọc được suy nghĩ của giáo viên hoặc khiến giáo viên nghĩ rằng bạn biết những gì bạn không biết và gian lận trắng trợn. Dù thế nào, chẳng có gì khác biệt giữa việc nhiều học sinh bị áp lực rất lo lắng – và nhiều giáo viên cũng thế. Nếu một giáo viên bị đánh giá qua thành tích của học sinh trong một bài kiểm tra chuẩn hóa, thì anh ta sẽ hợp lực với lũ trẻ để đánh lừa kẻ thù chung bằng mọi cách có thể. Rất nhiều giáo viên và trường học hoàn toàn vô lương tâm về điều này. Tôi đã từng dạy các học sinh lớp năm, mặc dù điểm kiểm tra thành tích của các năm trước cho thấy các em có đủ kỹ năng tính toán, nhưng lại không thể cộng hoặc trừ. Vậy thì làm thế nào mà những điểm kiểm tra thành tích này lại có được? Bằng cách siêng năng nhồi nhét từ phía các giáo viên. Đôi khi, tôi được yêu cầu tự mình thực hiện một số việc nhồi nhét này. “Đừng bận tâm đến những gì bạn nghĩ bọn trẻ hiểu hoặc có thể sử dụng hoặc ghi nhớ. Chỉ cần đảm bảo rằng chúng đạt điểm cao trong các bài kiểm tra thành tích đó.” Thế thì, đây không phải là một loại gian lận sao?
Hẳn bài kiểm tra là một cái bẫy? Khi nó quyết định ai được củ cà rốt và ai được cây gậy, nó chẳng giúp được gì ngoại trừ điều này. Churchill đã từng nói, bằng những từ ngữ hùng hồn hơn những điều này, rằng các giáo viên của ông ấy ở Harrow không quan tâm đến việc tìm hiểu những gì ông ấy biết, mà chỉ quan tâm đến việc khám phá những gì ông ấy không biết. Điều này nói chung là đúng, không phải vì giáo viên là những người già nua, mà bởi vì nhu cầu liên tục tách cừu ra khỏi dê của hệ thống đòi hỏi điều đó. Hãy xem xét vấn đề của người làm bài kiểm tra. Một học sinh biết bất cứ điều gì về một chủ đề sẽ biết đủ để viết về chủ đề đó trong nhiều giờ. Ví dụ, tôi đã không học lịch sử Mỹ từ năm lớp tám và nhanh chóng quên hầu hết những gì tôi đã học sau đó. Những gì tôi biết ít ỏi hoặc nghĩ rằng tôi biết về nó, tôi đã thu thập được từ rất nhiều lần đọc linh tinh, hầu như không có gì trong những thứ có thể gọi là sách lịch sử. Tuy nhiên, nếu tôi được yêu cầu viết ra tất cả những gì tôi biết và hiểu về lịch sử Hoa Kỳ, có lẽ sẽ mất nhiều trang, có thể là một cuốn sách, thậm chí vài cuốn. Vậy thì làm sao ai đó có thể kiểm tra kiến thức của tôi, chứ đừng nói đến kiến thức của một sinh viên lịch sử, trong một hoặc ba giờ? Điều ấy không thể. Nếu một giáo viên cho học sinh của mình một bài kiểm tra để chúng thể hiện mình biết được bao nhiêu, thì tất cả chúng sẽ hết thời gian từ lâu trước khi nói hết điều cần nói, và sẽ không có cách nào cho điểm ngoại trừ việc cho chúng tất cả ngang điểm nhau, điều mà các ông chủ sẽ không thích. Để tạo ra sự phân biệt giữa các học sinh ở hầu hết các trường là trách nhiệm của giáo viên – mọi người không thể cùng tới Harvard – giáo viên phải hỏi các câu hỏi sao cho vài học sinh thậm chí không thể trả lời. Tóm lại, giống như các giáo viên của Churchill, họ phải truy tìm ra những người ngu ngốc để có thể quyết định một cách “khách quan” ai được phần thưởng và ai bị phạt.
Tôi vẫn còn nhiều phản đối các bài kiểm tra hơn thế nữa. Hầu như lúc nào chúng cũng hành hạ những học sinh làm việc chậm. Các bài kiểm tra có xu hướng ủng hộ người đoán thông minh, người chơi tỷ lệ phần trăm và gây bất lợi cho học sinh thích kỹ lưỡng và chắc chắn. Họ trừng phạt nghiêm khắc những học sinh lo lắng về các bài kiểm tra; vì nỗi sợ hãi, nhiều sinh viên hoàn toàn không thể biểu lộ trong các bài kiểm tra mình biết được bao nhiêu, và mỗi lần thất bại lại thêm phần sợ hãi hơn trong lần tiếp theo. Và các bài kiểm tra gây hiểu lầm, thực sự là vô giá trị, đối với những học sinh đó, tôi nghi ngờ là có rất nhiều học sinh ở các thành phố của chúng ta, những em không nỗ lực để làm bài tốt, theo đuổi chiến lược cố tình trượt, có lẽ để giữ thể diện, có lẽ để làm tổn thương cha mẹ của mình, có lẽ để chống lại một hệ thống mà chúng coi thường.
Có thể là khi các bài kiểm tra dường như hoạt động tốt nhất thì chúng lại gây hại nhiều nhất. Tôi đã thường xuyên thảo luận với các học sinh hiện tại của tôi có năng lực, thành công, đang trên đường đến các trường đại học danh tiếng về việc kiểm tra và chấm điểm. Điều đáng ngạc nhiên là nhiều người trong số họ quyết liệt bảo vệ một hệ thống mà họ thường phàn nàn và nổi loạn chống lại. Họ nói, một cách giận dữ hoặc lo lắng, “Nhưng nếu chúng em không được kiểm tra và xếp loại, làm sao chúng em biết chúng em có học được gì không, chúng em học tốt hay kém?” Điều đó làm tôi buồn. Tôi nghĩ về những đứa trẻ hai và ba tuổi mà tôi biết, liên tục so sánh câu nói của chính chúng với câu nói của những người xung quanh. Tôi nghĩ đến những đứa trẻ năm và sáu tuổi mà tôi biết, đang tự học đọc, tìm ra từng từ mới trên một trang giấy, những đứa trẻ đó liên tục kiểm tra xem chúng đang làm gì với những gì chúng đã làm, những gì chúng không biết với những gì chúng biết. Sau đó, tôi nghĩ về những học sinh lớp năm của mình, đưa cho tôi những bài thi số học và lo lắng hỏi, “Có đúng không thưa thầy?”, và nhìn tôi như thể tôi bị điên khi tôi nói, “Em nghĩ thế nào?” Chúng nghĩ gì thì có gì khác biệt? Sự Đúng không liên quan gì đến thực tế, tính nhất quán hay lẽ thường; Đúng ở đây là những gì giáo viên bảo là Đúng, và cách duy nhất để biết điều gì đó có Đúng hay không là hỏi giáo viên. Có lẽ sai lầm lớn nhất trong tất cả những sai lầm mà chúng ta gây ra cho trẻ em ở trường là tước đi cơ hội đánh giá giá trị công việc của chính chúng và do đó phá hủy khả năng đưa ra những đánh giá ở chúng, hoặc thậm chí là niềm tin rằng chúng có thể.
Những gì tôi đã nói cho đến nay liên quan đến các bài kiểm tra trong một hệ thống bắt buộc. Nhưng tôi có những phản đối khác, sâu xa hơn đối với việc kiểm tra, ngay cả trong một hệ thống không sử dụng bất kỳ sự đe dọa hay ép buộc nào. Những phản đối này dựa trên niềm tin về bản chất của suy nghĩ, kiến thức, học tập và giáo dục. Có lẽ câu chuyện sau đây sẽ làm sáng tỏ một số trong số đó. Nhiều năm trước, tôi đã làm việc trong phong trào thúc đẩy ý tưởng về chính phủ thế giới. Một ngày nọ, tôi gặp lại một người bạn cũ và thân thiết mà tôi đã lâu không gặp. Anh ấy hỏi tôi đang làm gì, và khi tôi nói với anh ấy, anh ấy bắt đầu tranh luận với tôi. Anh ấy nói, tôi đang lãng phí thời gian và đang gây hại. Lập luận của anh ta là một lập luận quen thuộc: rằng bằng cách nói về sự cần thiết của chính phủ thế giới, chúng ta đang làm xói mòn niềm tin vào Liên Hợp Quốc và góp phần vào sự hủy diệt của nó. Vào thời điểm đó, tôi đã học được cách không tranh cãi với những người bạn thân, mà cố gắng tìm hiểu xem tại sao họ lại nghĩ như vậy. Tôi khuyến khích anh ấy tiếp tục nói. Dần dần, trong cuộc nói chuyện giữa bữa trưa, cảm nhận sâu sắc hơn của anh ấy về thế giới bắt đầu xuất hiện. Đến cuối bữa trưa, anh ta nói rằng đối với những nước là kẻ thù lớn của chúng ta, chúng ta nên chinh phục họ trong khi chúng ta đang còn độc quyền về vũ khí nguyên tử. Đối với Liên Hợp Quốc, nhẹ nhất thì nó chỉ như một mối phiền toái và trở ngại mà thôi. Còn tệ nhất, nó là một mối nguy hiểm rõ ràng, và chúng ta phải thoát khỏi nó càng sớm chừng nào thì tốt chừng ấy.
Trong khoảng thời gian chưa đầy hai giờ, bạn tôi đã bày tỏ lo ngại rằng tôi đang phá hoại Liên Hợp Quốc và sau đó tố cáo tổ chức này là vô giá trị và nguy hiểm. Việc nghe một người phát biểu những quan điểm hoàn toàn trái ngược nhau như vậy, không chỉ một cách chân thành mà còn đầy nhiệt huyết, là một cú sốc lớn đối với tôi. Vừa hay, tôi nhận ra rằng điều này không hề bất thường chút nào. Người ta thường nghe thấy ngay cả những người được cho là thông minh và hiểu biết đưa ra những tuyên bố, thường là trong một khoảng thời gian ngắn, hoàn toàn mâu thuẫn với nhau. Những người tổ chức các cuộc thăm dò ý kiến biết rằng có thể nhận được nhiều câu trả lời khác nhau cho một câu hỏi nhất định bằng cách thay đổi cách diễn đạt của câu hỏi hoặc bối cảnh của các câu hỏi dẫn đến câu hỏi đó. Các cuộc thăm dò về Chiến tranh Việt Nam hết lần này đến lần khác cho thấy nhiều người có những niềm tin mâu thuẫn và trái ngược nhau. Chỉ một vài năm trước đây, dường như rõ ràng là đại đa số người Mỹ da trắng đã thực sự tán thành và ủng hộ những mong muốn và yêu cầu bình đẳng của người da đen. Kể từ đó, các sự kiện đã chỉ ra rằng nhiều người, có lẽ là hầu hết, những người này phản đối mạnh mẽ bất kỳ tiến bộ nào như vậy nếu nó ảnh hưởng đến cuộc sống của chính họ theo bất kỳ cách nào. Tuy nhiên, họ đã không giả dối trước đây; họ chỉ đơn giản là không biết họ sẽ làm gì trong tình thế khó khăn.
Chỉ vài người trong chúng ta biết mà thôi. Và đây là lý do chính và cơ bản của tôi để nghi ngờ giá trị của kiểm tra. Làm sao chúng ta có thể kỳ vọng đo lường được nội dung trong tâm trí của người khác khi việc biết nhiều hơn một phần rất nhỏ nội dung của chính chúng ta là rất khó, gần như là không thể? Tâm lý con người – tâm lý của suy nghĩ và cảm xúc, không phải nhận thức – vẫn còn là một ngành khoa học sơ khai. Những người nghiên cứu nó không đồng ý về rất nhiều điều. Nhưng có một vấn đề mà dường như họ đồng ý với nhau đó là chúng ta hoàn toàn không biết bản thân nghĩ gì về rất nhiều điều quan trọng, thực sự là như vậy. Để biết dù chỉ một phần nội dung của tâm trí chúng ta là một nhiệm vụ chậm chạp, tinh tế, khó khăn và thường đau đớn nhất. Vậy thì, tôi phải hỏi lại, làm thế nào chúng ta có thể chắc chắn về khả năng của mình trong việc khám phá nội dung tâm trí của người khác?
Tất nhiên, có thể đưa ra lập luận rằng mặc dù rất khó hoặc thậm chí không thể tìm ra cảm nhận của một người nào đó về cha ruột của anh ta, nhưng không nhất thiết là khó để tìm ra suy nghĩ của anh ta về hình học, Shakespeare hoặc kỹ thuật điện. Có một số sự thật trong điều này. Hầu hết đàn ông có nhiều khả năng biết họ thực sự nghĩ gì về thuế thu nhập hơn là họ thực sự nghĩ gì về gia đình mình, và những gì họ nói về thuế thu nhập có thể khá gần với suy nghĩ thực của họ. Nhưng chỉ khá gần, và chỉ một vài thời điểm. Chúng ta mang trong đầu nhiều chuỗi từ ngữ quy tắc, châm ngôn, nguyên tắc mà chúng ta đã học là phù hợp và thoải mái trong một số trường hợp nhất định, nhưng chúng ít hoặc không liên quan gì đến những gì chúng ta thực sự tin tưởng hoặc với cách chúng ta thực sự hành xử trong cuộc sống của chúng ta. Nói tóm lại, ngay cả trong những vấn đề gần gũi, tầm thường, những gì chúng ta nói và nói một cách chân thành, có thể khác xa với những gì chúng ta thực sự nghĩ.
Ngay cả khi xã hội của chúng ta coi trọng kiến thức về bản thân hơn kiến thức về không gian, và tất cả mọi người đều trở thành triết gia, đây vốn là một phần hợp lý mà chúng ta nên làm, thậm chí nếu chúng ta biết chính chúng ta nghĩ gì, sẽ còn các lý do tại sao thật khó để biết người khác, đặc biệt là trẻ con nghĩ gì.